Chứng khoán phái sinh sẽ ra đời và “sinh sôi” trong năm 2016 này như thế nào sau khi việc “thai nghén” nó đã hoàn tất trong năm 2015?
Về nguyên tắc, chứng khoán phái sinh được giao dịch tại các sở giao dịch chứng khoán và thực hiện bù trừ, thanh toán qua Trung tâm Lưu ký chứng khoán với tư cách là đối tác bù trừ trung tâm. Ảnh: MINH KHUÊ |
Khung pháp lý cho thị trường chứng khoán phái sinh cơ bản đã được ra đời, đánh dấu một bước tiến mới trong quá trình phát triển pháp luật về công cụ phái sinh của Việt Nam. Tuy vậy, còn nhiều vấn đề pháp lý cần phải có hướng dẫn cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể là Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (SSC).
Phái sinh là gì?
Lần đầu tiên Việt Nam có khung pháp lý cho các giao dịch chứng khoán phái sinh (được quy định tại Nghị định số 42/2015/NĐ-CP ngày 5-5-2015 của Chính phủ (Nghị định 42 về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh).
Chứng khoán phái sinh (derivative securities) là một loại chứng khoán theo quy định của Luật Chứng khoán nhưng giá trị của chứng khoán đó phụ thuộc vào một chứng khoán khác hay tài sản tài chính khác, gọi chung là “tài sản cơ sở” (underlying assets). Theo Nghị định 42, chứng khoán phái sinh bao gồm hợp đồng tương lai, quyền chọn, hay kỳ hạn hoặc các công cụ phái sinh khác theo quy định của Bộ Tài chính. Theo một dự thảo thông tư hướng dẫn đưa ra lấy ý kiến gần đây, bước đầu Bộ Tài chính sẽ chỉ cho thực hiện một số giao dịch chứng khoán phái sinh như hợp đồng tương lai với tài sản cơ sở là trái phiếu chính phủ (bond futures) hay là chỉ số cổ phiếu (equity index-linked futures).
Nghị định 42 điều chỉnh không chỉ các chứng khoán phái sinh niêm yết (exchange traded derivative securities) mà còn cả một số loại công cụ phái sinh không niêm yết (off-exchange derivatives) như các hợp đồng quyền chọn hay kỳ hạn dựa vào tài sản cơ sở là cổ phiếu không niêm yết. Do đó, có khả năng các giao dịch quyền chọn mua cổ phần (thường dành cho cổ đông hiện hữu hay nhà đầu tư chiến lược) hoặc phát hành chứng quyền theo phương thức phát hành riêng lẻ (thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014) cũng được coi là giao dịch chứng khoán phái sinh.
Các công ty chứng khoán cần phải có giấy chứng nhận do SSC cấp để trở thành thành viên giao dịch và được thực hiện các giao dịch tự doanh cho mình cũng như giao dịch môi giới cho khách hàng. Các ngân hàng thương mại là thành viên của thị trường trái phiếu chính phủ có thể được SSC chấp thuận là thành viên đặc biệt được thực hiện giao dịch tự doanh với các thành viên khác trên sở giao dịch chứng khoán sau khi có được chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
Còn nhiều vấn đề pháp lý cần phải có hướng dẫn cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước. |
Nghị định 42 cho phép mọi tổ chức và cá nhân được đầu tư vào chứng khoán phái sinh. Tuy nhiên các định chế tài chính như tổ chức tín dụng (không phải là thành viên đặc biệt) cần phải xin chấp thuận cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền như NHNN đối với tổ chức tín dụng, hoặc Bộ Tài chính đối với công ty bảo hiểm. Các công ty quản lý quỹ không được phép thực hiện giao dịch tự doanh chứng khoán phái sinh.
Nghị định trên cũng quy định biện pháp ký quỹ áp dụng cho nhà đầu tư. Cơ chế ký quỹ được thực hiện theo hợp đồng mở tài khoản giữa nhà đầu tư với thành viên giao dịch (dựa trên mẫu hợp đồng Bộ Tài chính sẽ ban hành).
Về nguyên tắc, chứng khoán phái sinh được giao dịch tại các sở giao dịch chứng khoán và thực hiện bù trừ, thanh toán qua Trung tâm Lưu ký chứng khoán với tư cách là đối tác bù trừ trung tâm (central clearing counterparty). Các giao dịch chứng khoán phái sinh không niêm yết được giao dịch và thực hiện thanh toán không thông qua sở giao dịch và Trung tâm Lưu ký chứng khoán. Tuy nhiên, nhà đầu tư phải thực hiện nghĩa vụ báo cáo trước và sau giao dịch cho Trung tâm Lưu ký chứng khoán. Thông tư hướng dẫn Nghị định 42 cần quy định cụ thể cơ chế để nhà đầu tư thực hiện nghĩa vụ báo cáo này. Trong tương lai, chứng khoán phái sinh không niêm yết cũng sẽ được giao dịch và bù trừ, thanh toán qua sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm Lưu ký chứng khoán (khi cơ chế giao dịch và thanh toán bù trừ chứng khoán phái sinh không niêm yết được đưa vào hoạt động)
Chứng quyền có bảo đảm
Chứng quyền có bảo đảm (covered warrant) là một loại chứng khoán mới và nổi bật được chú ý trong các loại chứng khoán phái sinh. Nó rất thịnh hành ở các thị trường đã đi trước Việt Nam.
Chứng quyền này được quy định tại Nghị định số 60/2015/NĐ-CP ngày 26-6-2015 (sửa đổi bổ sung Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20-7-2012 hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán). Chỉ các công ty chứng khoán được phép phát hành chứng quyền có bảo đảm.
Chứng quyền có bảo đảm là chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản của tổ chức phát hành, cho phép người mua được quyền mua (call warrant) hoặc quyền bán (put warrant) “chứng khoán cơ sở” đối với tổ chức phát hành theo một mức giá đã được xác định tại hoặc trước một thời điểm được ấn định. Thay bằng việc phải thực hiện giao hoặc nhận chứng khoán cơ sở, tổ chức phát hành cũng có thể lựa chọn thanh toán cho người mua khoản chênh lệch giữa giá thực hiện (strike price) và giá thị trường của chứng khoán cơ sở. Về bản chất, chứng quyền có bảo đảm là một loại chứng khoán phái sinh nhưng lại không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 42 nêu trên.
Theo một dự thảo thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính đưa ra lấy ý kiến gần đây, chứng quyền có bảo đảm chỉ có thể được phát hành theo phương thức phát hành ra công chúng và phải được niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán. Ngoài ra, chứng khoán cơ sở chỉ có thể là cổ phiếu, chứng chỉ quỹ hoán đổi danh mục (quỹ ETF) hoặc chỉ số thị trường (securities index) do sở giao dịch chứng khoán tại Việt Nam xây dựng. Tổ chức phát hành không được phát hành chứng quyền có bảo đảm với chứng khoán cơ sở là cổ phiếu do mình phát hành. Tổ chức phát hành phải ký quỹ tài sản bảo đảm tại ngân hàng lưu ký. Như vậy, tài sản bảo đảm chỉ có thể là tiền hoặc chứng khoán khác.
Dự thảo thông tư này không quy định cụ thể về hạn chế loại hình nhà đầu tư. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại có thể không được đầu tư vào chứng quyền có bảo đảm vì theo quy định của Luật Tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại không được phép kinh doanh cổ phiếu.
--
Nguyễn Hoàng Anh - Công ty Luật Mayer Brown JSM, thành viên Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA)