Thông tư quy định rõ, toàn bộ dư nợ và số dư cam kết ngoại bảng của một khách hàng tại một TCTD phải được phân loại vào cùng một nhóm nợ...
Trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa ban hành Thông tư số 11/2021/TT-NHNN quy định về phân loại tài sản có, mức trích, các phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của các TCTD.
Về nguyên tắc, Thông tư quy định rõ, toàn bộ dư nợ và số dư cam kết ngoại bảng của một khách hàng tại một TCTD phải được phân loại vào cùng một nhóm nợ.
Đối với khách hàng có từ hai khoản nợ và/hoặc cam kết ngoại bảng trở lên tại TCTD mà có bất cứ một khoản nợ hoặc cam kết ngoại bảng nào bị phân loại vào nhóm có mức độ rủi ro cao hơn các khoản nợ hoặc cam kết ngoại bảng khác thì TCTD đó phải phân loại lại các khoản nợ và/hoặc cam kết ngoại bảng còn lại của khách hàng vào nhóm có mức độ rủi ro cao nhất.
Đối với khoản ủy thác cấp tín dụng mà bên nhận ủy thác chưa giải ngân hết số tiền đã ủy thác theo hợp đồng ủy thác, TCTD ủy thác phải phân loại số tiền đã ủy thác nhưng chưa giải ngân như là một khoản cho vay đối với bên nhận ủy thác. Thời gian quá hạn được xác định từ thời điểm bên nhận ủy thác không giải ngân đúng theo thời hạn giải ngân quy định tại hợp đồng ủy thác.
Đối với khoản nợ đã bán (trừ khoản nợ đã được sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro) nhưng chưa thu được đầy đủ tiền bán nợ thì TCTD bán nợ phân loại số tiền chưa thu được như là khoản nợ chưa bán.
Đối với khoản nợ đã mua, tại thời điểm mua nợ TCTD mua nợ phân loại số tiền mua nợ vào nhóm nợ có mức độ rủi ro không thấp hơn nhóm nợ mà khoản nợ đó đã được phân loại tại thời điểm phân loại nợ gần nhất trước khi mua và tiếp tục thực hiện phân loại số tiền mua nợ như khoản nợ tại chính TCTD.
Đối với số tiền mua, ủy thác cho tổ chức khác (bao gồm cả TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài) mua trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân loại số tiền mua trái phiếu như là một khoản cho vay không có bảo đảm đối với bên phát hành trái phiếu, trừ trường hợp trái phiếu doanh nghiệp được bảo đảm thanh toán bằng tài sản.
Đối với khoản nợ theo hình thức bao thanh toán, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân loại khoản bao thanh toán như là một khoản cho vay đối với bên mua hàng trong thời hạn bao thanh toán. Trường hợp thực hiện quyền truy đòi, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phân loại khoản nợ như là một khoản cho vay đối với bên bán hàng.
Đối với các khoản cho vay, tiền gửi của tổ chức tín dụng hỗ trợ tại tổ chức tín dụng đang được kiểm soát đặc biệt theo quy định tại khoản 9 Điều 148đ Luật Các tổ chức tín dụng (đã sửa đổi, bổ sung), TCTD hỗ trợ được phân loại vào nhóm nợ đủ tiêu chuẩn và không phải điều chỉnh nhóm nợ theo danh sách khách hàng do CIC cung cấp.
Đối với khoản mua bán lại trái phiếu Chính phủ, TCTD phân loại số tiền đã thanh toán để mua như là một khoản cho vay đối với bên bán trong giao dịch mua (giao dịch lần 1) theo quy định của pháp luật về đăng ký, lưu ký, niêm yết, giao dịch và thanh toán giao dịch công cụ nợ của Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh do ngân hàng chính sách phát hành và trái phiếu chính quyền địa phương.
Đối với số tiền mua kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi do TCTD khác phát hành, TCTD phân loại số tiền mua như một khoản cho vay đối với TCTD phát hành.
Về tỷ lệ trích lập dự phòng đối với từng nhóm nợ, nợ tiêu chuẩn không phải trích lập, nợ cần chú ý trích lập 5%, nợ dưới chuẩn trích lập 20%, nợ nghi ngờ trích lập 50% và nợ có khả năng mất vốn trích lập 100%.
Tài sản bảo đảm đủ điều kiện được khấu trừ khi tính số tiền trích lập dự phòng. Tỷ lệ khấu trừ tùy thuộc vào từng loại tài sản nhưng phải theo nguyên tắc tài sản thanh khoản càng thấp, mức biến động giá càng lớn thì tỷ lệ khấu từ phải càng thấp.
Trường hợp tài sản bảo đảm từ 200 tỷ đồng trở lên, tài sản từ 50 tỷ đồng trở lên đối với khoản nợ của người có liên quan, cần chú ý, nợ dưới chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn phải thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá để xác định giá trị tài sản.
TCTD phải thành lập Hội đồng xử lý rủi ro, được sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong trường hợp khách hàng tổ chức bị giải thể, phá sản, khách hàng cá nhân chết, mất tích hoặc trường hợp nợ phân loại vào nhóm 5.
Sau thời gian tối thiểu là 5 năm kể từ ngày sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro và sau khi thực hiện tất cả các biện pháp để thu hồi nợ nhưng không thu hồi được, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được quyết định xuất toán nợ đã xử lý rủi ro ra khỏi ngoại bảng.
Trường hợp có bằng chứng chắc chắn chứng minh tổn thất về tài sản đối với khoản nợ thì xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận của các bên phù hợp với quy định pháp luật. Trường hợp do nguyên nhân chủ quan thì người gây ra tổn thất phải bồi thường. Nếu tài sản bảo đảm đã mua bảo hiểm thì xử lý theo hợp đồng bảo hiểm.
Số tiền thu hồi được từ nợ đã sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro được coi là doanh thu trong kỳ kế toán.