Năm 2017 đánh dấu tròn 30 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Báo Đầu tư trân trọng chuyển tới bạn đọc chùm bài nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của GS - TSKH Nguyễn Mại, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hơp tác đầu tư.
Trong những năm gần đây để ứng phó có hiệu quả với nguy cơ hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ trái đất tăng đã xuất hiện thuật ngữ “nền kinh tế xanh” (Green Economie) với nội hàm của phát triển bền vững, ổn định kinh tế vĩ mô, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm công bằng xã hội, đồng thời đầu tư vào năng lượng tái tạo, nông nghiệp bền vững, giảm lượng khí thải carbon và ô nhiễm môi trường.
Phát triển nhà máy điện gió tại các tỉnh phía Nam hiện phù hợp với Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh của Chính phủ. Ảnh: Đức Thanh
Chuyển sang nền kinh tế xanh đòi hỏi phải thay đổi chính sách và giải pháp thu hút FDI phù hợp với Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh (Chiến lược) của Chính phủ nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên , bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái để đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất của quá trình tái sản xuất.
-I- |
Ngày 25/09/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050 với 3 mục tiêu:
1) Tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh hóa các ngành hiện có và khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên với giá trị gia tăng cao;
2) Nghiên cứu, ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, giảm cường độ phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu;
3) Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường thông qua tạo nhiều việc làm từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ xanh, đầu tư vào vốn tự nhiên, phát triển hạ tầng xanh.
Trên cơ sở Chiến lược và thông điệp của tổ chức Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) về “FDI low carbon”, tổng kết thu hút FDI trong 25 năm (1988- 2012), Chính phủ đã đề ra định hướng FDI vào linh tế xanh với nhiều giải pháp mới, do vậy đã đạt được những thành quả đáng khích lệ.
Nhiều doanh nghiệp FDI tham gia vào quá trình chuyển giao công nghệ xanh (green technology) từ các nước công nghiệp cho Việt Nam, có trách nhiệm xã hội cao trong việc bảo vệ và tuân thủ luật pháp liên quan đến môi trường, đem lại nhận thức về nền kinh tế xanh cho nhân viên trong quá trình hoạt động.
Theo Thời báo Financial Times tháng 7/2015, với 8,14 điểm, Việt Nam dẫn đầu các thị trường mới nổi khác về thu hút vốn FDI trong lĩnh vực tăng trưởng xanh; các vị trí tiếp sau thuộc về Romania, Hungary, Malaysia và Thái Lan.
Tuy vậy, hệ số tiêu hao năng lượng tính trên 1% tốc độ tăng trưởng mặc dù đã giảm từ 2,1 trong những năm đầu thiên niên kỷ mới xuống khoảng 1,3 hiện nay, nhưng vẫn còn cao hơn nhiêu so với yêu cầu của nền kinh tế xanh. Việc tiếp nhận quá nhiều dự án FDI trong một số ngành công nghiệp cổ điển như xi măng, sắt thép, lọc dầu, điện than làm gia tăng nhanh chóng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính, tác động tiêu cực đến môi trường. Việc thu hút FDI vào năng lượng tái tạo, điện mặt trời, điện gió vẩn còn khá khiêm tốn, mặc dù nước ta được đánh gia là có nhiều tiềm năng.
Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh của Chính phủ nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái để đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. |
Tuy chưa đến mức báo động đỏ về khí thải và môi trường như Trung Quốc, nhưng nhiều tổ chức trong nước và quốc tế cũng cảnh báo tình trạng đáng lo ngại của Việt Nam khi khói bụi ở một số thành phố lớn đã vượt xa mức tiêu chuẩn, nhiều dòng sông và ao hồ đã ô nhiễm đến mức không thể sử dụng nước sạch cho con người và nuôi trồng thủy sản, dịch bệnh mới có nguy cơ bùng phát trên diên rộng, tác động của biến đổi khí hâu ngày càng nghiêm trọng ở khắp các vùng miền của đất nước.
-II- |
Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, sản xuất xi măng là một sản phẩm được phát triển rất nhanh.
Từ mức một vài triệu tấn vào năm 1991, đến năm 2016, theo Hiệp hội Xi măng Việt Nam, ngành xi măng công suất trên 80 triệu tấn/năm, nhưng mức tiêu thụ chỉ khoảng 75 triệu tấn/năm. Dự báo, công suất này sẽ tăng lên trên 100 triệu tấn/năm vào năm 2020 cho dù các nhà máy xi măng hiện có và đang được đầu tư đã đủ cung cấp xi măng cho thị trường năm 2020. Thị phần xi măng được chia cho ba loại doanh nghiệp: 36% thuộc Tổng công tyXxi măng Việt Nam; 31% thuộc khu vực FDI và 33% thuộc doanh nghiệp tư nhân.
Việt Nam đã vượt qua Thái Lan và Indonesia, đứng đầu ASEAN về sản xuất xi măng vì từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực 1997- 2002, các nước đó đã ngừng xây dựng nhà máy mới.
Các công trình nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng, việc sản xuất 1 tấn xi măng cần tiêu hao 100 Kwh điện. Quá trình nung nguyên liệu với nhiệt độ cao sử dụng than đá là chủ yếu, nhiêt độ của khí thải ở mức khá cao (250-370 °C) tùy thuộc từng công đoạn, nhưng đó là lượng nhiệt không được tận dụng và trở nên vô ích, có 770kg C02 đổ vào không khí. Do đó, tất cả nhà máy xi măng đang hoạt động trên thế giới đã thải ra khoảng 5% khí thải cácbonic toàn cầu, gấp đôi lượng khí thải từ động cơ phản lực của toàn bộ ngành hàng không dân dụng. Chính vì thế, sản xuất xi măng trở thành thủ phạm lớn nhất gây ra hiện tượng hiệu ứng nhà kính.
Việt Nam nên dừng ở công suất sản xuất xi măng tối đa 100 triệu tấn/năm, không thu hút FDI thêm vào ngành này để thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh.
Sản xuất sắt thép cũng đang có những quan điểm trái chiều nhau. Trong khi Bộ Công thương dựa trên cân đối cung cầu và nhập siêu mỗi năm 6 -7 tỷ USD sản phẩm thép để đưa vào quy hoạch phát triển thêm một số dự án lớn, vừa qua đã có thêm dự án tỷ đô của Tập đoàn Hòa Phát và đồng tình với dự án quy mô lớn hơn của Tập đoàn Tôn Hoa Sen tại Tỉnh Ninh Thuận. Mặc dù sau thảm họa môi trường ở 4 tỉnh miền Trung, liên hợp sắt thép quy mô 9-10 triệu tấn giai đoạn I của Formosa tại Tỉnh Hà Tĩnh đã hoàn thành, giai đoạn II với công suất tương tự của Fomosa cũng đã được phép thực hiện.
Công nghiệp luyện gang thép thải ra một lượng lớn khí thải. Hơi và sản phẩm phụ từ quá trình luyện cốc, nung kết và làm sạch kim loại gây ô nhiễm nặng môi trường không khí. Các loại khí sinh ra từ quá trình này là oxit lưu huỳnh (SOx), oxit nitơ (NOx), oxit các bon (CO2) và các hạt lơ lửng.
Tại Ấn Độ, qua số liệu thu thập từ 5 nhà máy luyện gang thép năm 2009-2010, trung bình để luyện 1 tấn thép thành phẩm thì phát thải 1,4 đến 4,2 tấn CO2. Dự báo đến năm 2030, ngành công nghiệp luyện gang thép của Ấn Độ sẽ phát thải khoảng 800 triệu tấn CO2 .
Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn, hồ sơ Fact Sheet về hội nghị G-20 tại Hàng Châu, Trung Quốc (5/9/2016) của Chính phủ Mỹ cho rằng, tình trạng dư thừa công suất và sản lượng (overcapacity) của ngành sản xuất thép đã trở thành “một vấn đề toàn cầu”, đòi hỏi “một giải pháp toàn cầu”, chứ không còn là chuyện của một quốc gia và đó là lý do thép được đưa lên thành chủ đề thảo luận trong các cuộc gặp gỡ song phương và đa phương của các nhà lãnh đạo G-20 tại Trung Quốc.
Hội nghị G-20 Hàng Châu diễn ra dưới bầu trời trong xanh - một điều hiếm thấy tại Trung Quốc. Một cuộc khảo sát của Công ty tư vấn Mysteel xác nhận một nửa trong số 32 nhà máy thép gần thành phố này đã đóng cửa từ hai tháng trước hội nghị để làm sạch bầu không khí của Hàng Châu. Dưới sức ép của các đối tác thương mại, Trung Quốc đặt cam kết giảm sản lượng 45 triệu tấn trong năm nay và từ nay đến năm 2020 sẽ giảm 150 triệu tấn, song song với việc giảm xuất khẩu thép.
Do đó, xu thế xuất khẩu nhà máy thép của Trung Quốc có khả năng sẽ mạnh lên. Việt Nam được coi là điểm đến lý tưởng để Trung Quốc loại bỏ các nhà máy cũ, công nghệ lạc hậu, giảm ô nhiễm không khí, lại né tránh được các rào cản thuế quan, các biện pháp bảo hộ thị trường của các nước nhập khẩu thép.
Đây là lời cảnh tỉnh cho các nhà hoạch định chính sách cũng như các địa phương và doanh nghiệp Việt Nam trong việc quyết định thực hiện một số dự án sắt thép mới, qua liên kết bằng nhiều phương thức với nước ngoài, sử dụng vốn và công nghệ của Trung Quốc.
Để FDI hướng vào kinh tế xanh, Chính phủ cần kiên quyết không cho phép các tỉnh, thành phố tiếp nhận các dự án FDI mới vào những ngành công nghiệp tiêu hao nhiều năng lượng, gây hiệu ứng nhà kính, không thân thiện với môi trường; hạn chế thu hút FDI vào dệt nhuộm với yêu cầu khắt khe về công nghệ, thành lập các khu chuyên biệt về dệt nhuộm và may mặc để vừa tạo ra chuỗi cung ứng dệt - nhuộm - may mặc có hiệu quả kinh tế cao, vừa bảo đảm yêu cầu về môi trường và khí thải.
Chính phủ vừa giao Bộ Công thương nghiên cứu điều chỉnh chính sách ưu đãi để khuyến khích đầu tư vào điện mặt trời, điện gió, năng lượng tái tạo, vì mặc dù đã có chủ trương từ những năm đầu thập niên này về việc phát triển nhanh chóng các loại năng lượng sạch, nhưng do giá mua điện và chính sách ưu đãi chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư quốc tế, các cuộc thương thảo dự án đầu tư gặp nhiều trở ngại vì vẫn duy trì cơ chế độc quyền đối với ngành điện. Do vậy, cho đến nay, mới có vài dự án điện mặt trời, điện gió vận hành, hầu như chưa có dự án năng lượng tái tạo. Một số tỉnh như Ninh Thuận đã ký kết 14 dự án điện gió, nhưng phần lớn không được thực hiện.
Một dự án điện gió tại Tuy Phong (Bình Thuận). Ảnh: Huyền Dũng |
Có thể coi trạng thái đó là sự lãng phí lớn về thời gian và nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước vì chính sách không được ứng dụng vào thực tế. Cũng nên tìm ra nguyên nhân và người chịu trách nhiệm về sự lãng phí đó để rút kinh nghiệm cho việc điều chỉnh lần này.
Trong điều kiện Đảng và Nhà nước đã có quyết định đúng đắn và kịp thời dừng triển khai xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân công suất 4.000 MW, nguồn thủy điện không còn nhiều, đã phải nhập hàng chục triệu tấn than cho nhà máy điện than, thì chính sách khuyến khích FDI và đầu tư trong nước vào năng lượng sạch phải dựa trên các căn cứ sau:
1) Giá mua điện được hình thành trên nguyên tắc bảo đảm lợi nhuận hợp lý của nhà đầu tư tương ứng với các ngành khác trên cơ sở tính giá thành và hiệu quả kinh tế không chỉ bao gồm các chi phí trực tiếp như các loại năng lượng khác, mà cần hạch toán cả việc tiết kiệm chi phí bảo vệ môi trường, phát sinh khí thải gây hiệu ứng nhà kính nếu sử dụng năng lượng truyền thống.
2) Tạo thuận lợi trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán điện, bảo đảm chuyển đổi ngoại tệ theo nhu cầu hợp lệ của nhà đầu tư.
3) Xóa bỏ càng nhanh càng tốt trạng thái độc quyền của EVN, áp dụng đồng bộ cơ chế thị trường trong sản xuất và bán điện để bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư và người tiêu dùng.
4) Ngoài chính sách ưu đãi về thuế, đất đai thì cần nghiên cứu áp dụng chính sách ưu đãi tài chính, trợ cấp cho một số dự án lớn trong những năm đầu bằng ngân sách nhà nước (như đã thực hiện đối với dự án của Intel tại TP.HCM).
Việc tổ chức quá trình điều chỉnh chính sách lần này cần khắc phục nhược điểm khi xây dựng nghị định để không lặp lại quá trình rất mất thời gian từ khi lập đề án, tìm nguồn tài chính, tiến hành khảo sát, tổ chức hội thảo, lấy ý kiến chuyên gia các ngành, địa phương..., trong khi cuộc sống đang đòi hỏi cần có càng nhanh càng tốt nghị định mới về lĩnh vực này. Việc điều chỉnh chính sách chỉ cần khảo sát một vài dự án điện sạch đang vận hành và các dự án không được thực hiện để tìm trúng nguyên nhân, trên cơ sở đó lấy ý kiến các chủ dự án để có cơ sở sửa đổi một số quy định chưa đủ khuyến khích và bổ sung chính sách mới. Do đó, nếu được điều hành tốt thì chỉ cần một quý, Chính phủ có thể ban hành nghị định mới.
Nếu có chính sách đúng, chắc chắn sẽ tạo ra bước đột phá trong khai thác tiềm năng và lợi thế của nước ta về điện mặt trời, điện gió, năng lượng tái tạo, gia tăng nhanh chóng tỷ lệ các loại năng lượng này trong tổng nguồn cung năng lượng quốc gia trong điều kiện thuận lợi do giá cả máy móc, thiết bị và công nghệ của loại năng lượng này đã giảm nhiều trong vài năm gần đây và đang có xu hướng giảm. Hơn nữa, nhiều nhà đầu tư lớn từ Đức, Đan Mạch, Hàn Quốc, Trung Quốc đang tìm cách tiếp cận lãnh đạo một số địa phương để hình thành các dự án năng lượng sạch.
Đối với các dự án FDI trong các ngành và lĩnh vực vẫn tiếp tục được khuyến khích thì cần quan tâm đến công nghệ tiên tiến, tiết giảm năng lượng, thân thiện với môi trường, giám sát chặt chẽ trong quá trình xây dựng nhà máy, công trình kiến trúc để góp phần tạo ra nền kinh tế xanh.
Chính phủ cũng cần có chính sách ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp FDI đang sử dụng công nghệ lạc hậu, không thân thiện với môi trường đầu tư chuyển đổi công nghệ, đáp ứng tiêu chuẩn nền kinh tế xanh; định ra một thời hạn để các doanh nghiệp thực hiện. Đầu tư, bao gồm cả FDI để tạo ra cuộc sống tốt hơn và bền vững hơn cho con người.
Nếu cuối cùng, đầu tư không làm tăng no ấm và hạnh phúc cho mọi người theo hướng kinh tế xanh, thì không nên tiến hành đầu tư và càng không nên theo đuổi đầu tư.
GS - TSKH Nguyễn Mại