Thực tế những năm qua, ngành dệt may phần nào đã cho thấy sự “ưu ái” của Chính phủ dành cho mình. Dệt may đã trở thành một trong những ngành hàng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), dệt may Việt Nam đang đứng trước “cơ hội vàng” để phát triển tại các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada… Nhưng để tận dụng được lợi thế này, các sản phẩm dệt may phải chứng minh được nguồn gốc nguyên, phụ liệu đến từ chính các nước TPP. Lần theo chuỗi giá trị của dệt may Việt Nam thì phát hiện ra từng mắt xích vừa yếu lại vừa thiếu, đặc biệt, việc phát triển nguồn nguyên, phụ liệu - mắt xích được coi là gốc của ngành dệt may - lại đang là con số 0 tròn trĩnh. Và đây chính là điểm “chết”, là “cửa tử” đối với ngành dệt may Việt Nam.
Lấy công làm lãi
Mơ hồ chuỗi giá trị dệt may
Trong số các ngành, các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh của nền kinh tế nước ta, có thể thấy, dệt may là một trong số ít lĩnh vực của Việt Nam có lợi thế so sánh, cạnh tranh so với các quốc gia khác. Vậy nên, ngay từ những ngày đầu tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, dệt may đã được Chính phủ xác định là lĩnh vực ưu tiên trong việc đàm phán các Hiệp định Thương mại tự do như TPP, Hiệp định Thương mại Việt Nam - EU và Việt Nam - Liên minh Hải quan Nga - Belarus - Kazakhstan…
Tuy nhiên, khi nền kinh tế ngày càng hội nhập, mức độ hội nhập ngày càng cao và đồng nghĩa với đó là những yêu cầu ngày càng khắt khe đối với các ngành, các lĩnh vực sản xuất thì ngành dệt may Việt Nam lại bộc lộ rất nhiều yếu kém, thậm chí tỏ ra thụ động trước những cơ hội mà các hiệp định thương mại tự do mang lại. Điều này thể hiện rõ nhất ở sự yếu kém trong khả năng “tự cung, tự cấp, tự chủ” trong chuỗi cung ứng dệt may. Các doanh nghiệp hầu như vẫn mạnh ai đấy làm để rồi đến bây giờ, sau gần 10 năm thực hiện “Chiến lược phát triển ngành dệt may”, chuỗi cung ứng sợi - dệt - may vẫn tồn tại những lỗ hổng tại những mắt xích chủ chốt nhất.
Máy dệt kim tự động thế hệ mới nhất được trưng bày giới thiệu triển lãm VTG tại Việt Nam |
Những năm đầu thế kỷ XX, Gerefi - một trong những chuyên gia kinh tế hàng đầu nghiên cứu về lĩnh vực dệt may của Đại học Duke Durham (Hoa Kỳ) - đã đưa ra khái niệm về chuỗi giá trị hàng may mặc. Nghiên cứu này của Garefi sau đó đã được tất cả các nước, các tập đoàn kinh tế hoạt động trong lĩnh vực dệt may công nhận. Trong đó, Garefi xác định chuỗi giá trị dệt may gồm 5 phân khúc chính là nguyên liệu thô, nguyên phụ liệu, sản xuất, xuất khẩu và tiếp thị bán hàng. Trong đó, chuỗi cung ứng sợi - dệt - may là cốt lõi, là trung tâm của chuỗi giá trị, là nền tảng để ngành dệt may. Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới đã dựa theo nghiên cứu của Garafi về chuỗi cung ứng để từng bước triển khai theo cả 5 phân khúc. Và những tập đoàn, tổng công ty lớn như Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Dệt Phong Phú, Tổng Công ty Dệt may Hà Nội (Hanosimex), Dệt sợi Đông Quang… đã bước đầu xây dựng, hình thành chuỗi cung ứng nguồn nguyên, phụ liệu cho ngành dệt may. Sự phát triển này đã góp phần đưa dệt may trở thành một trong những lĩnh vực xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam với giá trị ước tính lên đến hàng chục tỉ USD mỗi năm.
Ngành dệt may ít nhiều đã để lại dấu ấn trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đặc biệt là trong mấy năm gần đây khi kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều biến động, khó khăn, dệt may vẫn có những bước tăng trưởng nhất định. Nhưng như đã đề cập ở trên, càng hội nhập, càng xâm nhập vào những thị trường đòi hỏi công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật cao thì ngành dệt may Việt Nam lại bộc lộ nhiều vấn đề. Dệt may xuất khẩu nhiều nhưng giá trị lợi nhuận trong toàn chuỗi cung ứng của ngành dệt may lại rất thấp và chủ yếu có được nhờ... gia công. Điều này cũng được thể hiện ở con số thống kê của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, trong năm 2014, dệt may xuất khẩu được 24,5 tỉ USD nhưng có tới 70% doanh thu xuất khẩu có được bằng phương thức gia công, tức là chúng ta nhập nguyên phụ liệu về “lắp ráp” rồi xuất khẩu. Xuất khẩu theo phương thức tự lo nguyên phụ liệu, xuất khẩu sản phẩm cho đối tác chỉ chiếm 20%.
Và đáng ngại hơn, theo tìm hiểu của chúng tôi thì có tới 90% nguyên, phụ liệu phục vụ dệt may xuất khẩu cũng như cung ứng trong nước là nhập khẩu từ nước ngoài. Nói một cách đơn giản là chuỗi dệt may của nước ta bị đứt, gãy ở ngay những khâu quan trọng nhất, có giá trị và lợi nhuận cao nhất. Cụ thể, về các loại nguyên liệu chính như bông, xơ (tự nhiên, nhân tạo) chúng ta mới chỉ đáp ứng khoảng 10% nhu cầu kéo sợi, có nghĩa là phải nhập khẩu đến 90% nguyên liệu. Sau đó, các doanh nghiệp kéo sợi gia công thành các loại sợi với tỷ lệ pha trộn khác nhau theo đơn đặt hàng của khách hàng nước ngoài hoặc trong nước.
Đến khâu thứ 3 là dệt, nhuộm thì hầu hết các loại vải từ khá đến cao cấp đều phải đưa sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc để dệt và nhuộm màu. Đặc biệt là các loại sợi có pha trộn xơ tổng hợp bởi trình độ, công nghệ của Việt Nam chưa đủ khả năng nhuộm màu. Phần còn lại là vải trắng, vải thấp cấp không yêu cầu về màu cao (phục vụ y tế, quốc phòng, hàng chợ) được dệt và nhuộm tại Việt Nam và có chăng, chỉ có một lượng nhỏ hàng dệt may được sản xuất từ vải dệt trong nước được xuất sang các nước như Lào, Campuchia… Vải giá trị cao lại được các doanh nghiệp may nhập khẩu về để cắt, may, hoàn thiện sản phẩm kèm theo là 100% các phụ liệu may như chỉ, cúc, mác, nhãn mạ kim…
Cuối cùng các sản phẩm may mặc mà bàn tay người Việt thực hiện hơn 80% công đoạn thì người Việt cũng không được sử dụng mà buộc phải xuất khẩu sang các nước khác. Đặc biệt là các doanh nghiệp lớn của Việt Nam như Vinatex, Hanosimex, Phong Phú… cũng đang phải theo đúng cái chuỗi luẩn quẩn này.
Công ty TNHH Sợi dệt Vĩnh Phúc |
PGS.TS Hà Văn Hội - Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế (Trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội) khi nhìn nhận về sự thiếu liên kết sợi - dệt nhuộm - may đã nhấn mạnh: “Cho đến nay, ngành dệt may của Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tình trạng bị phụ thuộc khá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Các nhà sản xuất hàng dệt may của Việt Nam hiện đang nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan hoặc Hongkong… với giá trị nguyên phụ liệu nhập khẩu thường chiếm gần 70-80% so với trị giá kim ngạch xuất khẩu. Tuy được chú trọng đầu tư về công nghệ, dây chuyền sản xuất hiện đại hơn nhưng nguyên liệu sản xuất trong nước hoặc không đủ cho nhu cầu sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu hoặc không đáp ứng được tiêu chuẩn của khách hàng… Vì vậy, giá trị thực tế mà ngành may mặc thu được không hề cao so với con số kim ngạch xuất khẩu”.
Trong 5 phân khúc chính của chuỗi giá trị dệt may toàn cầu gồm sản xuất nguyên liệu thô, sản xuất nguyên phụ liệu, may, xuất khẩu và phân phối bán lẻ thì ngành dệt may Việt Nam vẫn chủ yếu hoạt động ở phân khúc may - phân khúc tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất. Nhìn lại quá trình phát triển của chuỗi giá trị ngành dệt may có thể thấy sự phát triển thiếu đồng bộ giữa các phân khúc trong toàn bộ chuỗi cung ứng, đặc biệt là sự yếu kém trong liên kết sợi - dệt, nhuộm - may chính là nguyên nhân chính làm cho ngành dệt may Việt Nam không thể chuyển dịch sang các phân khúc có giá trị gia tăng cao.
Để làm rõ điều này, PGS.TS Hà Văn Hội đã đưa ra dẫn chứng như sau: Trong tất cả các khâu của chuỗi giá trị dệt may Việt Nam thì may là ngành có sự phát triển rõ rệt nhất, giá trị xuất khẩu năm 2010 là 10 tỉ USD thì đến năm 2014 đã lên tới 20,65 tỉ USD… Trong khi đó ngành may có những bước phát triển tương đối dài thì ngành dệt vải, in nhuộm và hoàn tất vẫn chưa phát triển nhiều. Như năm 2009, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may là 9 tỉ USD thì giá trị xuất khẩu vải chỉ đạt chưa đến 430 triệu USD…
Khi chúng tôi tìm gặp ông Lê Hồng Quân - Phó tổng giám đốc Phú Bài, Giám đốc Nhà máy sợi Phú Xuyên thì càng được khẳng định thêm về sự thiếu rõ nét của chuỗi dệt may Việt. Theo đó, Phú Bài có 7 nhà máy xe sợi với gần 18 vạn cọc, công suất khoảng 36,4 ngàn tấn sợi/năm. Sản phẩm sợi của Phú Bài cũng rất phong phú, từ sợi 100% cotton, sợi pha CVC, Polyester… dùng cho dệt kim và dệt thoi. Và để đáp ứng nhu cầu này, mỗi năm Phú Bài phải nhập khẩu hàng chục ngàn tấn bông, xơ polyester, nhưng sợi Phú Bài làm ra chủ yếu là xuất khẩu sang Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Sau đó, để làm hàng may mặc, Phú Bài lại nhập vải từ Trung Quốc, Nhật Bản về để gia công theo các đơn đặt hàng.
Số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, trước năm 2013, cả nước mới có 3 khu công nghiệp (KCN) dệt may được thành lập với tổng diện tích 331ha, tại Đồng Nai (Nhơn Trạch, 184ha); Hưng Yên (Phố Nối, 121ha); Bình Dương (Bình An, 26ha), thì chỉ từ đầu năm 2014 tới nay, đã có thêm 5 KCN dệt may mới, với tổng diện tích 1.900ha. Đó là các KCN Dệt may Rạng Đông (Nam Định), quy mô 600 ha; Texhong Hải Hà (Quảng Ninh), 660ha; Tam Thăng (Quảng Nam), 175ha; Phân KCN dệt may Hàn Quốc tại KCN Nhơn Trạch 6A, tỉnh Đồng Nai, quy mô 75ha; KCN hỗ trợ ngành dệt may (Thừa Thiên - Huế), 400ha (đang xin chủ trương đầu tư).
TPP là quả đắng!?
Theo Bộ Công Thương, trong những năm gần đây, dệt may là ngành gia công phát triển nhanh nhất. Và ngay sau khi TPP kết thúc vòng đàm phán, đã có rất nhiều những nhận định lạc quan về cơ hội phát triển của ngành dệt may đã được giới chuyên gia, nhà phân tích đưa ra. Cơ hội đó là việc gia tăng lợi nhuận tại thị trường Hoa Kỳ vốn dĩ đang chiếm tới gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của dệt may Việt Nam khi có tới 1.000/1.600 dòng thuế sẽ giảm về 0. Sức cạnh tranh của hàng dệt may vì thế sẽ được cải thiện và đồng nghĩa với đó là khả năng mở rộng thị trường, chiếm lĩnh thị phần dệt may khổng lồ của Hoa Kỳ. Theo đánh giá của Bộ Công Thương, với những lợi thế đó, tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ có thể tăng trưởng gấp đôi trong những năm tới.
Mặc dù ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước “cơ hội vàng” nhưng với “thể trạng” hiện tại thì ngành dệt may đang lâm vào cảnh “hữu danh mà vô thực”. Bởi như đã đề cập ở trên, ngành dệt may Việt Nam đang không có “gốc”, phát triển chỉ như “ký sinh”.
Tình trạng này kéo dài nhiều năm khiến dệt may Việt trở thành “con bệnh” mang nhiều mầm bệnh trên người. Đó là vấn đề nội lực yếu khi không đủ tích lũy, nguồn máu tài chính lưu động hạn chế, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, dàn trải còn công nghệ thì thiếu thốn và lạc hậu. Và đặc biệt “nguy hiểm” là sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu, mẫu mã thiết kế từ nước ngoài, trong đó có tới 65% nguyên liệu nhập khẩu đến từ các nước không phải thành viên tham gia TPP.
Trong khi đó, để được hưởng thuế xuất 0%, hàng dệt may Việt Nam phải chứng minh được nguồn gốc xuất xứ từ sợi trở đi, tức là các nguyên phụ liệu sản xuất ra sản phẩm dệt may phải được sản xuất tại các nước TPP. Cái bức tranh ảm đạm về một cơ thể xám xịt ấy chính là bộ mặt thực tế của dệt may Việt Nam. Cũng chính vì vậy mà đợt khảo sát vừa qua của các nước phát triển về dệt may như Ấn Độ, Thái Lan, Đài Loan… họ đã thản nhiên vỗ ngực mà bảo rằng sẽ biến Việt Nam thành sân sau, thành đại công xưởng chuyên đi gia công cho họ.
Ông Lê Hồng Quân - Phó tổng giám đốc Phú Bài, Giám đốc Nhà máy Sợi Phú Xuyên khi đề cập đến câu chuyện này đã thẳng thắn đề cập, những nguyên phụ liệu dệt may, vải dệt trong nước chỉ có thể xuất khẩu sang các nước như Lào, Campuchia hoặc dùng trong nước. Mà tỷ lệ này theo ông Quân là gần như 100%. Ngoài ra, để có sợi, vải xuất khẩu, chúng ta cũng lại phải nhập xơ, nhập sợi về đề dệt sợi, dệt vải. Dệt vải rồi thì cũng lại xuất thô hoặc để doanh nghiệp nước ngoài nhuộm vì trình độ nhuộm của Việt Nam thấp, không đảm bảo chất lượng, vải hay bị bay hoặc phai màu…
Một điều đáng lo ngại hơn là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dệt may lại đang phụ thuộc vào khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Về điều này, Phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam Đặng Phương Dung cho biết, trong số gần 7.000 doanh nghiệp dệt may đang hoạt động ở Việt Nam thì có khoảng 1.600 doanh nghiệp FDI, nhưng tỉ trọng xuất khẩu của những doanh nghiệp này lại lên tới 70% toàn ngành. Xuất phát từ thực tế trên, Báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh 2014 (PCI 2014) đặt câu hỏi: Liệu các doanh nghiệp dệt may có được hưởng cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ TPP trong khi ngành này đang phụ thuộc vào nguyên liệu của một số nước khác không phải thành viên TPP không?
Giải đáp mối lo này, bà Đặng Phương Dung chán nản nói: Ngành dệt may Việt Nam đang tham gia chủ yếu “khâu giữa” của chuỗi sản xuất dệt may, tức làm gia công. Còn khâu đầu và cuối (tức nguyên liệu và xuất khẩu sản phẩm) lại chủ yếu nằm trong tay các doanh nghiệp Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan... Đây là thực tế khi chính ở các thị trường xuất khẩu chính của chúng ta là Mỹ và châu Âu thì tỷ lệ nội địa hóa cũng chỉ khoảng 30-40%. Chủ yếu ở nhân công và một số phụ liệu cơ bản như chỉ, thùng, túi, hạt chống ẩm, một số nhãn mác... Để giải quyết vấn đề này là điều không hề đơn giản, đặc biệt là công nghiệp sợi.
“Nếu doanh nghiệp đầu tư 20 triệu USD vào máy móc, công nghệ dệt sợi thì cũng phải mất 20 triệu USD để xử lý môi trường. Chưa kể, để đầu tư máy móc cho 1 công nhân may chỉ khoảng vài chục triệu đồng, thì 1 công nhân sợi cần được đầu tư gấp 5-6 lần... Rõ ràng, khó khăn với dệt may Việt Nam là vô cùng lớn khi đáp ứng quy tắc xuất xứ để được hưởng thuế thấp”.
Chúng tôi nhớ mãi cái sự chua chát của Tổng giám đốc Hanosimex Nguyễn Song Hải khi trao đổi về chuỗi giá trị dệt may của Việt Nam, ông cho rằng nói dệt may Việt không có chuỗi giá trị dệt may thì cũng không đúng mà nói có thì lại càng không chính xác. Các doanh nghiệp có chút tiềm lực trong ngành đã và đang cố gắng xây dựng các mắt xích như bộ phận thiết kế mẫu, vùng nguyên liệu, dệt, nhuộm đến bán sản phẩm. Những hầu hết chỉ là những chuỗi nhỏ lẻ và luôn tiềm ẩn những rủi ro đứt gãy cực lớn.
Chính vì vậy dù thuế xuất hàng dệt may trong các nước tham gia TPP có giảm về 0% thì Việt Nam cũng khó được hưởng lợi gì và bức tranh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam thực tế không phải màu hồng. TPP chỉ là dịp mở rộng, phát triển mở rộng thị trường nhưng ngược lại đây cũng chính là cơ hội để các nhà tư bản nước ngoài xâm nhập mạnh mẽ với ý đồ làm bá chủ một ngành kinh tế chủ lực của người ta. Chính vì vậy, sẽ là không thừa khi dự đoán rằng hội nhập quốc tế đang trở thành nỗi ám ảnh của ngành dệt may Việt Nam khi đứng trước nguy cơ mất thị trường, mất lợi thế cạnh tranh, thậm chí đánh mất chính mình ngay trên sân nhà!
Có thể nói, dệt may Việt chỉ đang “giành” được một phần nhỏ bé trong chuỗi dệt may toàn cầu có giá trị hàng trăm tỉ USD/năm. Vậy để có thể lớn mạnh, chữa trị những căn bệnh trầm kha của dệt may, có “sức ăn” được miếng bánh lớn hơn trong tương lai thì chúng ta cần làm gì?
“Tham gia TPP sẽ là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị trường, nhất là thị trường Mỹ và Nhật Bản. Trong cuộc chơi này, Việt Nam cũng có cơ hội nếu doanh nghiệp có năng lực, phát triển theo chuỗi, đi từ sợi, dệt, nhuộm, may… Còn không, doanh nghiệp sẽ rất khó trụ được trước sức ép ngày càng lớn từ các đối tác nước ngoài” - Tổng giám đốc Tổng Công ty Cổ phần Phong Phú Phạm Xuân Trình.
"Trái đắng nguyên liệu"
Bài học của những “con rồng”
Trong lịch sử phát triển kinh tế của một số quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, vùng lãnh thổ Đài Loan… có một điểm chung là đều đi lên từ ngành công nghiệp dệt may, để rồi trở thành những “con rồng” châu Á. Lý do là ngành dệt may có khởi điểm đòi hỏi nhu cầu vốn không lớn, giải quyết được nhiều lao động chuyển dịch từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp, sử dụng ít tài nguyên không tái tạo lại được như đất, nước và năng lượng. Ngoài ra, ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động này luôn an toàn, không có nguy cơ tạo ra cú sốc cho nền kinh tế như bất động sản hay tài chính…
|
Điều này đã được khẳng định khi theo thống kê mới nhất của Hiệp hội Dệt May Việt Nam, ngành dệt may hiện đang tạo việc làm và thu nhập ổn định cho khoảng 2,5 triệu lao động trực tiếp và gần 2 triệu lao động gián tiếp (thuộc các ngành công nghiệp phụ trợ, kho bãi, vận chuyển…). Và với mức thu nhập trung bình 4,5 triệu đồng/tháng/người, tương đương 54 triệu đồng/năm thì tổng quỹ lương chi trả cho 2,5 triệu lao động trực tiếp trong 1 năm là 135 ngàn tỉ đồng (tương đương 6,7 tỉ USD) là một con số không nhỏ, đóng góp đáng kể vào chi tiêu xã hội và tăng trưởng kinh tế.
Còn xét hiệu quả trên 1ha diện tích thì với ngành dệt may sẽ xây dựng được một nhà máy may, tạo việc làm cho trên 1.000 công nhân, với thu nhập của người lao động trong một năm xấp xỉ 54 triệu đồng. Như vậy, tổng thu nhập tiền công từ 1ha đất đã lên tới 54 tỉ đồng. Với một đất nước xuất phát điểm từ nông nghiệp đang trong tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, thì số tiền người lao động thu được từ 1ha đất như vậy được tính là rất hiệu quả.
Đặc biệt trong những năm qua, dệt may là ngành tiên phong đưa nhà máy về vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn nhằm giải quyết công ăn việc làm cho người dân địa phương. Từ Bắc vào Nam, nơi nào có nhà máy dệt may, nơi đó người dân không chỉ đảm bảo thu nhập mà còn được học nghề, làm quen với văn hóa, tác phong công nghiệp, nâng cao chất lượng cuộc sống và tri thức. Dệt may không chỉ góp phần thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn từ nông nghiệp sang công nghiệp trong công cuộc đổi mới và trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà còn giúp xóa dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.
Hiện nay có một số quan điểm cho rằng, dệt may là ngành công nghiệp nhẹ, mang lại giá trị gia tăng chưa cao. Tuy nhiên, cần đánh giá một cách toàn diện điều kiện của nền kinh tế Việt Nam cũng như mặt bằng dân trí. Nếu chỉ tập trung vào ngành công nghệ cao thì gần 3 triệu người lao động phổ thông sẽ đi đâu và làm gì? Và bài toán việc làm cho một lực lượng lao động không nhỏ sẽ giải quyết như thế nào?
Vậy nên, vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để dệt may thực sự là động lực phát triển kinh tế?
Nhìn sang các nước bên cạnh có thể thấy, ngành dệt may Việt Nam đang phải đối diện nhưng vấn đề mà Nhật Bản, Trung Quốc đã trải qua. Các doanh nghiệp dệt may của Nhật Bản hay Trung Quốc cũng có xuất phát điểm thấp, công nghệ lạc hậu, tiềm lực tài chính hạn chế... nhưng họ đã tìm ra được con đường, bước đi hợp lý để từng bước phát triển. Và giờ đây, Nhật Bản, Trung Quốc có thể xem là những cường quốc hàng đầu về công nghệ ngành dệt may trên thế giới. Sự phát triển của ngành dệt may cũng được các quốc gia này xác định là bước chạy đà quan trọng để trở thành cường quốc kinh tế như hiện nay. Những bài học từ sự thành công Nhật Bản, Trung Quốc vì thế là điều rất đáng để chúng ta lưu ý. Họ đã không chỉ đặt công nghiệp dệt may vào trọng tâm của nền kinh tế mà còn có chính sách hỗ trợ, đặc biệt là vào chuỗi sợi - dệt - may.
Ví như ở Trung Quốc, ngay từ khi mới thực hiện quá trình công nghiệp hóa, dựa trên lợi thế về truyền thống lâu đời và nguồn lao động dồi dào, Trung Quốc đã coi dệt may và công nghiệp hỗ trợ dệt may là những ngành công nghiệp mũi nhọn và tập trung phát triển. Theo đó, những năm cuối thập niên 70 đến trước năm 1998, cũng giống các quốc gia đang phát triển khác, ngành dệt may của Trung Quốc đặc trưng với trang thiết bị lạc hậu, cơ sở sản xuất nhỏ, phân tán, hiệu quả sản xuất thấp. Thêm vào đó, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997 đã gây ra sự mất giá của một loạt các đồng tiền trong khu vực và tác động mạnh đến sức cạnh tranh của hàng dệt may Trung Quốc. Đứng trước những khó khăn này, vào năm 1998, Chính phủ Trung Quốc thông qua kế hoạch cải tổ, hiện đại hóa các xí nghiệp dệt may, đặc biệt là ưu tiên phát triển hoạt động sản xuất nguyên liệu thượng nguồn.
Đầu tiên, Chính phủ Trung Quốc đề ra các chính sách khuyến khích loại bỏ các máy móc cũ và lạc hậu, thực hiện trợ cấp cho ngành dệt thông qua hình thức cấp tiền trợ cấp và cho vay ưu đãi cho các doanh nghiệp để loại bỏ số cọc sợi cũ. Cụ thể, trợ cấp 3 triệu NDT và cho vay ưu đãi 2 triệu NDT (tương đương 15 tỉ đồng) với mỗi 10.000 cọc sợi cũ bị loại bỏ. Chính sách này đi kèm với việc Trung Quốc tăng các mức thuế khác để bù đắp chi phí khi xuất khẩu hàng dệt may. Nhờ đó, riêng năm 1998, Trung Quốc đã loại bỏ được 5,12 triệu cọc sợi cũ, chấp nhận cắt giảm 60.000 việc làm trong ngành dệt.
Đồng thời, Chính phủ Trung Quốc đã quy hoạch tập trung sản xuất dệt may vào các khu vực duyên hải có truyền thống lâu năm về ngành sản xuất nguyên phụ liệu và may mặc nhằm tận dụng kinh nghiệm sản xuất, điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng và lực lượng lao động dồi dào có tay nghề cao tại các khu vực này. Việc quy hoạch tập trung cũng nhằm phát huy lợi thế về quy mô sản xuất để hạ giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng có những chính sách giảm thuế khuyến khích FDI, xây dựng các quỹ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu dệt may. Những chính sách hỗ trợ xuất khẩu này đã khuyến khích các doanh nghiệp dệt may đổi mới năng lực và hiện đại hóa công nghệ, thiết bị, dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nhờ những chính sách trên, ngành dệt may Trung Quốc đã có cuộc đại phát triển cao tốc với mức tăng trưởng 500% liên tục trong gần 2 thập niên (từ năm 1990 đến năm 2008). Giá trị sản lượng tăng từ 10 tỉ USD lên tới 50 tỉ USD, sử dụng 15 triệu nhân công, sản xuất 25 tỉ m2 vải.
Còn tại Nhật Bản, ngay từ những năm 1930, sau khi xác định dệt may là lĩnh vực trọng tâm phát triển, Chính phủ Nhật Bản đã thực thi nhiều chính sách can thiệp vào lĩnh vực sản xuất tơ tằm bằng cách thiết lập sự kiểm tra, kiểm soát về chất lượng ở một số khâu quan trọng, hình thành các trạm kiểm tra chất lượng ở các hải cảng nhằm đảm bảo chất lượng trước khi xuất khẩu, ban hành luật kiểm tra trứng tằm, theo đó quy định các nhà nuôi tằm chỉ được mua trứng tằm của các nhà buôn có giấy phép… Nhờ sự can thiệp trên mà chất lượng tơ của Nhật Bản đã được thế giới đánh giá rất cao, Nhật Bản đã thắng thế trong cạnh tranh với tơ của Trung Quốc trên thị trường thế giới.
Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản còn ban hành những chính sách pháp luật rất chi tiết và cụ thể để hỗ trợ cho sự phát triển ngành dệt may. Từ việc hỗ trợ các gia đình nông dân thông qua việc thành lập các hộ tín dụng để cho nông dân vay vốn, thực hiện các biện pháp giúp đỡ về kỹ thuật, đến thực hiện chính sách bảo hộ qua thuế khi hầu hết các mặt hàng dệt may nhập khẩu vào Nhật đều có mức thuế suất cao hơn rất nhiều so với các nước phương Tây. Mặt khác, Nhật Bản đã xây dựng các chính sách công nghiệp “sát sườn” nhằm kịp thời đáp ứng những biến đổi trong môi trường kinh doanh, cân bằng lợi ích giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng doanh nghiệp dệt may lớn. Một số chính sách luật đã tạo ra bệ phóng để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội phát triển được ban hành từ rất sớm.
Điển hình là ngay từ năm 1949, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành Luật về Hợp tác với doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm bảo vệ quyền đàm phán của doanh nghiệp vừa và nhỏ và tạo điều kiện cho họ tiếp cận với công nghệ mới và các nguồn vay. Tiếp đến khi ngành chế tạo mở rộng nhanh chóng Chính phủ Nhật Bản ngay lập tức thông qua việc ban hành Luật Xúc tiến Doanh nghiệp thầu phụ vừa và nhỏ vào năm l970 để tạo thuận lợi cho các hoạt động thầu phụ.
Nghịch lý ở Việt Nam
Như đã đề cập ở trên, với những lợi thế vốn có, phát triển công nghiệp dệt may chính là những bước đi khởi đầu để Nhật Bản, Trung Quốc từng bước phát triển và trở thành những “con rồng” châu Á như hiện nay. Nhưng cũng chính điều này đã chỉ ra một nghịch lý đối với nền kinh tế Việt Nam - nền kinh tế đang đặt mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp - là những “ông lớn” của ngành dệt may như Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), Tổng Công ty Cổ phần may Hà Nội (Hanoisimex), May Nhà Bè, Việt Tiến muốn “lĩnh ấn tiên phong” phát triển vùng nguyên liệu, dệt nhuộm… lập tức đâm đầu vào không ít những bức tường xây bằng đá tảng. Trong đó, nổi cộm nhất chính là nỗi lo không có “mảnh đất cắm dùi”.
Những khó khăn này đã được đặt ra tại Hội thảo Thị trường chứng khoán cuối năm 2015 có tên “Cơ hội từ cổ phiếu dệt may”. Hiệp hội dệt may Việt Nam đã đề nghị Chính Phủ đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải tại các khu vực dệt nhuộm để tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Đồng thời, sớm lập quy hoạch chi tiết các khu vực phát triển dệt may lớn trên cả 3 miền Bắc - Trung - Nam. Trong đó nêu rõ, không phải tỉnh thành nào cũng nồng nhiệt chào đón các dự án dệt nhuộm. Đình đám nhất là việc Đà Nẵng đã từng từ chối dự án 200 triệu USD của nhà đầu tư Hongkong vì lo ngại ô nhiễm môi trường. Hay như TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương… đều là những tỉnh thành “đi tiên phong” trong việc nói không với các dự án dệt may với lý do “có nguy cơ ô nhiễm cao”.
Trong Hội thảo này, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam Vũ Đức Giang đã bộc bạch: “Đừng cho rằng các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư hàng tỉ USD vào dệt may là họ sẽ hưởng lợi hết từ TPP của chúng ta. Lợi ích sẽ được chia đều cho các bên, các doanh nghiệp trong nước đang gấp rút mở rộng quy mô, xây dựng nhà máy mới. Ngành phụ trợ, nguyên liệu cho dệt may sẽ được đáp ứng, hưởng lợi về thuế suất. Vấn đề còn lại chỉ là kiểm soát tốt ô nhiễm môi trường từ dệt nhuộm. Trên bản đồ dệt may thế giới hầu hết các quốc gia đều xây dựng các khu công nghiệp dệt nhuộm ở gần biển. Việc các khu công nghiệp dệt may của Việt Nam được xây dựng ở gần cửa biển không có gì lạ bởi lượng nước thải quá lớn chỉ có thể xả ra biển. Tiêu chuẩn môi trường ở Việt Nam giờ khắt khe lắm, nếu không đạt loại A thì đóng cửa hết, nên người dân không phải quá lo điều đó. Bài học ô nhiễm từ Trung Quốc vẫn còn đó, chúng tôi đã học được điều này và yêu cầu tuân thủ nghiêm ngặt tiêu chuẩn nước thải của các khu công nghiệp”.
Cùng với nỗi lo chung về cơ chế đầu tư cho ngành dệt may, ông Nguyễn Song Hải - Tổng giám đốc Hanosimex khi trao đổi với chúng tôi về vấn đề này đã chua chát: Việc các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam gặp khó khăn khi tìm kiếm địa điểm đầu tư là có thật. Thời gian qua, chúng tôi “ôm tiền” đi các tỉnh tìm đất xây nhà máy bị lắc đầu đuổi đi không phải là chuyện “hoang đường”. Nguyên nhân được nhiều tỉnh đưa ra như quỹ đất hạn hẹp, cở sở hạ tầng chưa đồng bộ… Đặc biệt là quy định về môi trường, nước thải khiến doanh nghiệp dệt may khó mà kham nổi. Nhiều nơi cứ khơi khơi áp quy định nước thải như buộc doanh nghiệp phải trả chi phí xử lý nước loại A (15 nghìn đồng/m3) cao ngang giá mua nước sạch sinh hoạt. Trong khi đó, nguồn nước đầu vào sản xuất cho các doanh nghiệp dệt, nhuộm chỉ là nước sông không ô nhiễm nặng (loại B)…
Khẳng định tầm quan trọng phát triển các khu công nghiệp dệt may tập trung, Tổng giám đốc Vinatext Lê Tiến Trường nhấn mạnh: Để dệt may Việt Nam phát triển điều cốt yếu là cần thành lập các cụm công nghiệp nguyên phụ liệu và giải quyết nút thắt chính là xử lý nước thải của khâu nhuộm hoặc các loại nguyên phụ liệu liên quan đến môi trường như xi mạ trong sản xuất nút kim loại hoặc các công đoạn của ngành may như giặt, in… Như vậy, giá thành sẽ cạnh tranh và môi trường được quản lý chặt chẽ. Bên cạnh đó, cần có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư trong cụm công nghiệp phụ liệu về thuế đất, thuế VAT, thu nhập, miễn giảm thuế tùy theo chủng loại sản phẩm cần khuyến khích đầu tư… Đặc biệt Chính phủ cần hỗ trợ vốn xây dựng cơ bản và thiết bị, lập quỹ hỗ trợ, ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp sản xuất thử nghiệm phụ tùng, vật tư thay thế ngoại nhập (thuốc nhuộm, tẩy) hay thiết bị trong dây chuyền sản xuất sản phẩm công nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp thực hiện phương thức FOB (Free On Board - Giao hàng lên tàu) cho các đơn hàng có tỷ lệ nội địa hóa từ 50% trở lên...
Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp hiện nay đang “khát” nguyên liệu dệt may. Bởi theo cách nói của ông Nguyễn Văn Tiến - Giám đốc Công ty sợi dệt Vĩnh Phúc thì việc thiếu chủ động nguồn cung nguyên phụ liệu trong nước sẽ đặt ra cho các doanh nghiệp dệt may rất nhiều khó khăn, thách thức, thậm chí phải đối diện với nguy cơ phá sản nếu chậm bàn giao hàng...
“Công ty Sợi dệt Vĩnh Phúc có quy mô vừa phải. Và trong quá trình sản xuất, để đảm bảo các đơn hàng, hợp đồng đã ký, để tránh bị động về nguyên liệu, công ty phải tính toán đặt trước cả tháng trời nguồn nguyên phụ liệu. Nguồn nguyên phụ liệu này nếu phải nhập khẩu xơ từ nước ngoài thay cho xơ nội thì thời gian mất cho một đơn sẽ thêm 3-4 tuần. Ngoài ra, doanh nghiệp nhập khẩu phải mở LC đặt hàng qua ngân hàng, chuẩn bị kho bãi, hải quan, vận chuyển hàng về đến nhà máy… Nhiêu khê hơn nữa là mỗi lần chuyển đổi nguyên liệu, phải căn chỉnh lại toàn bộ dây chuyền xe sợi của nhà máy. Lo ngại nhất là vấn đề chất lượng của lô hàng khi đang sản xuất dở dang sẽ không được đồng bộ về chất lượng, có thể bị khách hàng phạt hợp đồng” - ông Tiến thông tin.
Vậy nên, theo ông Tiến, nếu các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may trong nước có thể càng chủ động được nguồn nguyên phụ liệu bao nhiêu thì lợi ích càng lớn bấy nhiêu.
Nói như vậy để thấy rằng, bản thân các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may rất “khát” nguồn nguyên liệu trong nước. Và đây tiếp tục là một nghịch lý nữa đang tồn tại trong ngành dệt may Việt Nam. Doanh nghiệp dệt may mong có nguồn nguyên phụ liệu trong nước, sẵn sàng đầu tư, phát triển vùng nguyên phụ liệu nhưng lại đang gặp phải quá nhiều trở ngại, vướng mắc. Khi chúng tôi tiếp xúc với hầu hết lãnh đạo doanh nghiệp dệt may, chúng tôi cảm nhận được họ đều có chung một tâm trạng như một người mạo hiểm đứng trước một kho báu, chỉ cần bước qua một cánh cửa là trở nên giàu có, đổi đời nhưng cánh cửa đó đang bị rất nhiều ổ khóa có tên cơ chế đầu tư, nguồn nguyên liệu, ưu đãi thuế… Cái tâm trạng bức thiết, mong ngóng đó thể hiện rõ nhất trong số phận của Nhà máy xơ sợi Polyester đầu tiên của Việt Nam sẽ được chúng tôi gửi đến bạn đọc vào kỳ sau.
Theo Báo Năng Lượng Mới