Hiệp hội Nhựa Việt Nam tính toán, theo giá nhập khẩu hiện tại, nếu tăng thuế nhập khẩu lên 5% thì chi phí phát sinh mà doanh nghiệp nhựa nhập khẩu từ các nước Trung Đông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... phải chi trả dự kiến trong 5 năm tới là trên 1.200 tỷ đồng.
VPA có công văn gửi Bộ Tài chính, Bộ Công Thương kiến nghị xem xét không tăng thuế nhập khẩu nguyên liệu PP lên 5%, giữ nguyên mức thuế suất nhập khẩu nguyên liệu nhựa PP ở mức 3% như hiện nay.
Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA) vừa có công văn gửi Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Quốc hội.... kiến nghị xem xét không tăng thuế nhập khẩu hạt nhựa PP lên 5%, giữ nguyên mức thuế suất nhập khẩu hạt nhựa PP ở mức 3% như hiện nay.
Nguyên nhân của kiến nghị này là do trước đó, VPA nhận được công văn số 10756/BTC-CST của Bộ Tài chính về việc xin ý kiến dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 125/2017/NĐ-CP, trong đó Bộ Tài chính đề xuất điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu đối với mặt hàng Polypropylen (hạt nhựa PP thuộc nhóm HS 3902) từ 3% lên 5%.
Theo VPA, việc dự kiến tăng thuế nhập khẩu lên 5% đối với nguồn nguyên liệu chủ yếu sẽ gây ảnh hưởng rất tiêu cực đến ngành công nghiệp nhựa còn non trẻ của nước ta.
Đo khả năng đáp ứng nguyên liệu trong nước
Trong văn bản, VPA cho biết các doanh nghiệp ngành nhựa hoàn toàn ủng hộ việc xây dựng một nền công nghiệp hóa dầu tại Việt Nam, cụ thể là hình thành các nhà máy sản xuất nguyên liệu nhựa chính là Polypropylen (PP) của Khu lọc hóa dầu Dung Quất và Polyethylene (PE) + Polypropylen (PP) của Khu liên hợp lọc hóa dầu Nghi Sơn.
Tuy nhiên, theo công suất thiết kế và sản xuất trên thực tế thì Công ty TNHH Một thành viên Lọc hóa dầu Bình Sơn kể từ khi đưa vào sản xuất cho đến hết năm 2017 thì tổng công suất tối đa chỉ đạt 150.000 tấn/năm và Khu liên hợp lọc hóa dầu Nghi Sơn theo tiến độ đến giữa năm 2019 mới đi vào hoạt động sản xuất để cung cấp sản phẩm PP cho thị trường Việt Nam nhưng sản lượng không đạt mức công suất thiết kế là 300.000 tấn/năm.
Tương tự, Công ty TNHH Hyosung Vietnam có công suất thiết kế là 300.000 tấn/năm nhưng chỉ có 1/3 công suất sản phẩm PP là được sử dụng cho sản xuất các sản phẩm Nhựa ép (PP Injection) và 2/3 tổng công suất còn lại là sản phẩm chuyên dụng phục vụ ngành dệt may.
Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ hạt nhựa PP tại thị trường Việt Nam trong vòng 5 năm nay tăng bình quân 200.000 tấn/năm, từ 582.761 tấn vào năm 2014 đã tăng lên 1.274.988 tấn vào năm 2018. Dự kiến, giai đoạn 2019-2023 nhu cầu sử dụng nguyên liệu nhựa PP sẽ tăng bình quân 11,38%, từ 1.420.081 tấn năm 2019 lên 2.185.453 tấn vào năm 2023.
Khả năng cung ứng của 3 nhà sản xuất nhựa PP nói trên sẽ giảm dần trong thời gian tới (dựa theo phân tích số liệu từ công suất thiết kế và thực tế ứng dụng của sản phẩm trong sản xuất thiết kế), đồng nghĩa với việc doanh nghiệp nhựa phải tìm kiếm nhập khẩu nguyên liệu PP từ nước ngoài.
Ông Hồ Đức Lam, Chủ tịch VPA kiến nghị, trong giai đoạn từ 2019 – 2023, VPA đề nghị không tăng thuế. Vì để chính sách bảo hộ không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của một ngành hàng thì đối tượng được bảo hộ cần phải chiếm tỷ lệ từ 50%-75% trở lên.
VPA tính toán, theo giá nhập khẩu hiện tại, nếu tăng thuế nhập khẩu lên 5% thì chi phí phát sinh mà doanh nghiệp nhựa nhập khẩu từ các nước Trung Đông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... phải chi trả dự kiến trong 5 năm tới là trên 1.200 tỷ đồng.
Khi tăng thuế nhập khẩu, các doanh nghiệp có thể chuyển sang mua nguyên liệu PP từ các nước trong khu vực FTA. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam khi ấy không thể mua nguyên liệu PP với giá như trước đây (mặc dù thuế suất thuế nhập khẩu từ khu vực này là 0%) vì người bán sẽ nâng giá bán lên tương ứng với giá của các nước ngoài khu vực FTA.
"Chi phí phát sinh lúc đó mà các doanh nghiệp phải chi trả dành cho các nước trong khu vực FTA dự kiến trong 5 năm tới sẽ là 3.628 tỷ đồng, mà khoản phí này Nhà nước hoàn toàn không thu được mà các nước trong khu vực FTA sẽ được hưởng lợi toàn bộ", ông Hồ Đức Lam cho biết và dự báo hệ quả sẽ xảy ra là thành sản phẩm sẽ tăng, không cạnh tranh được với sản phẩm nhập khẩu từ các nước trong khu vực Đông Nam Á, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản.
Ông Lam nói thêm, khi xem xét về loại hình doanh nghiệp đang được đề nghị tăng mức thuế thì số vốn đầu tư chi phối quyền quyết định thuộc các doanh nghiệp nước ngoài, mà những đối tượng doanh nghiệp này đã được thụ hưởng hàng loạt các chính sách ưu đãi khi họ tham gia đầu tư tại Việt Nam như thuế đất, thuế thu nhập doanh nghiệp...
Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm chính là đầu ra của những doanh nghiệp có mặt hàng đề nghị tăng thuế lại gồng mình gánh chịu sự xâm nhập thị trường của những sản phẩm nhựa cùng loại từ các nước ký kết FTA có mức thuế suất về 0%. Điều này vô hình tạo nên sự bất bình đẳng ở mức độ cao trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn ngành nhựa Việt Nam.
Theo Hải Yến / baodautu.vn