I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Về kinh tế
Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá so với năm 2013, ước đạt 9,05% (mục tiêu 9%; năm 2013 tăng 8,77%), trong đó ngành nông lâm nghiệp tăng 2,28%, công nghiệp - xây dựng tăng 11,3%, dịch vụ tăng 11,52%. Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế là: nông lâm nghiệp chiếm 26,46%, công nghiệp - xây dựng 19,26%, dịch vụ 54,27%. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đầu người đạt 29,3 triệu đồng.
a) Sản xuất nông lâm nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Trong năm, tỉnh đã tập trung chỉ đạo các cấp, ngành và cơ sở chủ động, tích cực trong tổ chức sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, mùa vụ; quản lý chặt chẽ chất lượng giống, vật tư nông nghiệp, phòng chống dịch bệnh, cung ứng dịch vụ, thủy lợi, khuyến nông khuyến lâm. Tuy nhiên, do đầu năm mưa rét kéo dài, độ ẩm cao ảnh hưởng đến tiến độ làm đất, sinh trưởng của cây trồng; bão số 2 và số 3 xảy ra vào thời điểm thu hoạch nên sản lượng một số loại cây trồng giảm so với cùng kỳ.
Tổng diện tích gieo trồng cả năm ước đạt 103,7 nghìn ha, đạt 101% kế hoạch, tương đương cùng kỳ. Tổng sản lượng lương thực ước đạt 309 nghìn tấn, đạt 101,6% kế hoạch, bằng 98,6% cùng kỳ . Diện tích gieo trồng, sản lượng một số cây có giá trị kinh tế đều đạt kế hoạch và tăng so với cùng kỳ . Đàn gia súc, gia cầm phát triển tương đối ổn định. Ước hết năm 2014, toàn tỉnh có 123,3 nghìn con trâu, tăng 1,0% so với cùng kỳ; đàn bò 33,2 nghìn con, tăng 3,9%; đàn lợn 366 nghìn con, tăng 5,63%; đàn gia cầm tương đương cùng kỳ. Một số bệnh gia súc, gia cầm được khống chế kịp thời, không để hình thành dịch.
Trồng rừng mới được 10.975 ha đạt 115,5% kế hoạch, bằng 96,7% cùng kỳ; chăm sóc rừng trồng 11.800 ha, đạt 100% kế hoạch; khoanh nuôi tái sinh rừng 12.000 ha, đạt 106% kế hoạch; khoán bảo vệ rừng 24.310 ha, đạt 101,3% kế hoạch; độ che phủ rừng dự kiến đạt 53,5%; trồng cây ăn quả 574 ha, đạt 164% kế hoạch, tăng 19,6% so với cùng kỳ. Công tác quản lý, bảo vệ rừng được tăng cường, không để xảy ra các điểm nóng, tụ điểm phức tạp .
Chương trình xây dựng nông thôn mới tiếp tục được các cấp, các ngành tập trung thực hiện, nhất là tại 35 xã điểm. Chương trình đã tạo được chuyển biến tích cực về nhận thức của cả hệ thống chính trị và nhân dân, công tác huy động sức dân tham gia xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ; cơ sở hạ tầng về đường giao thông, thuỷ lợi, điện, nhà văn hóa… được cải thiện đáng kể; đã đầu tư 238 công trình hạ tầng với tổng kinh phí 153 tỷ đồng từ ngân sách và nhiều công trình lồng ghép từ các nguồn vốn khác. Triển khai 54 mô hình phát triển sản xuất mới với 1.556 hộ tham gia và một số mô hình liên kết giữa doanh nghiệp và người dân; đời sống của dân cư nông thôn từng bước được cải thiện, nâng cao. Số lượng tiêu chí đạt chuẩn nông thôn mới của các xã ngày càng tăng. Hoàn thành xây dựng 02 xã: Chi Lăng (huyện Chi Lăng) và Mai Pha (thành phố Lạng Sơn) đạt chuẩn nông thôn mới, có 21 xã đạt 10 tiêu chí trở lên, 88 xã đạt từ 5 - 9 tiêu chí, 96 xã đạt dưới 5 tiêu chí, không có xã trắng tiêu chí.
Các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở đã chủ động triển khai các phương án ứng phó với bão số 2 và số 3, góp phần giảm thấp nhất thiệt hại do thiên tai gây ra. Tuy nhiên, do lượng mưa lớn, gây ngập lụt trên diện rộng đã làm thiệt hại lớn về người, nhà cửa, công trình hạ tầng, tài sản, tổng giá trị thiệt hại ước tính 628 tỷ đồng . Công tác khắc phục hậu quả do bão được chỉ đạo thực hiện tích cực, kịp thời, nhanh chóng khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân. UBND tỉnh đã sử dụng ngân sách địa phương, hỗ trợ của Thủ tướng Chính phủ, đóng góp của các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp hỗ trợ kịp thời cho các gia đình bị thiệt hại.
b) Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng khá, thị trường tiêu thụ một số sản phẩm được mở rộng. Giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 3.586 tỷ đồng, tăng 14,2% so với năm 2013 . Sản lượng một số sản phẩm chủ yếu tăng so với cùng kỳ: Điện thương phẩm 492 triệu Kwh, tăng 11,6%; xi măng 580 nghìn tấn, tăng 11,5%; Clinker 600 nghìn tấn, tăng 102,7%; nước máy 7.390 nghìn m³, tăng 10,4%; chì thỏi 4.070 tấn, tăng 44,3%; bột đá mài 6.720 tấn, tăng 9,3%; gỗ và các sản phẩm từ gỗ 44.000 m³, tăng 47,7%. Tuy nhiên, còn một số sản phẩm giảm: Than sạch 462 nghìn tấn, giảm 7,2%; đá các loại 2.000 nghìn m³, giảm 3,4%; gạch các loại 140 triệu viên, giảm 6,7%... nguyên nhân là do một số cơ sở công nghiệp lớn đang tập trung sửa chữa, nâng cấp.
c) Hoạt động thương mại, du lịch và dịch vụ có nhiều chuyển biến tích cực. Đã tập trung cải thiện môi trường thuận lợi, thông thoáng, tích cực cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hóa. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn ước đạt 3 tỷ USD, bằng 117,3% kế hoạch, tăng 27,2% so với cùng kỳ, trong đó, kim ngạch xuất khẩu 1,43 tỷ USD, bằng 100,7% kế hoạch, tăng 35,5%; kim ngạch nhập khẩu 1,57 tỷ USD, bằng 137,8% kế hoạch, tăng 20,6%. Hàng hóa xuất khẩu của địa phương ước đạt 83,8 triệu USD, bằng 107,7% kế hoạch, tăng 23,2%.
Thương mại nội địa tiếp tục phát triển, hệ thống cung ứng hàng hóa đa dạng, rộng khắp, đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Công tác bình ổn thị trường, giá cả được nghiêm túc, hiệu quả. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ ước 11.907 tỷ đồng, đạt 87,5% kế hoạch, tăng 10,3% so với năm 2013. Thực hiện tốt Chương trình đưa hàng Việt về nông thôn năm 2014 gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; tổ chức hiệu quả, thiết thực các hội chợ trên địa bàn huyện Tràng Định, Đình Lập, Chi Lăng, Hữu Lũng, Cao Lộc, thành phố .
Trong năm, thu hút được 2.210,4 nghìn lượt khách du lịch, đạt 92% kế hoạch, tăng 1,8% so với cùng kỳ. Trong đó, khách quốc tế đạt 207,1 nghìn lượt, giảm 21,7%; khách trong nước đạt 2.003,3 nghìn lượt, tăng 5,0%. Doanh thu xã hội ước đạt 819 tỷ đồng, tăng 1,1%.
Sau sự kiện Biển Đông, hoạt động xuất nhập khẩu, kinh doanh vẫn duy trì ổn định; riêng khách du lịch quốc tế giảm mạnh.
Mạng lưới bưu chính, viễn thông cơ bản đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, chuyển phát kịp thời . Giao thông vận tải thông suốt, an toàn, đáp ứng tốt nhu cầu vận chuyển hàng hóa, hành khách.
Tổng nguồn vốn tín dụng huy động đến 31/12/2014 ước đạt 13.503 tỷ đồng, tăng 28,6% so với 31/12/2013; tổng đầu tư tín dụng đạt 12.226 tỷ đồng, tăng 11,9%. Triển khai có hiệu quả Đề án xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng trên địa bàn, nợ xấu đến 30/9/2014 là 156 tỷ đồng, chiếm 1,38% tổng dư nợ.
d) Tập trung xây dựng Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Lạng Sơn thành vùng kinh tế động lực của tỉnh. Các cấp, ngành đã tích cực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi, kịp thời giải quyết vướng mắc cho các hoạt động của Khu kinh tế cửa khẩu; kịp thời công bố các cửa khẩu phụ, điểm thông quan được phép tái xuất hàng hoá, giải quyết ách tắc hàng hóa cục bộ tại một số cửa khẩu; chủ động gặp gỡ doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các doanh nghiệp xuất nhập khẩu qua địa bàn. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch chi tiết một số khu chức năng, cửa khẩu, điểm thông quan cho phù hợp; chủ động đề xuất với Trung ương cơ chế chính sách ưu tiên phát triển kinh tế cửa khẩu. Đã hoàn thành 02 dự án quy hoạch, 8 công trình đưa vào sử dụng. Tập trung đẩy nhanh tiến độ các dự án lớn trong khu kinh tế cửa khẩu. Công tác quản lý cửa khẩu thường xuyên được quan tâm, các Trung tâm quản lý cửa khẩu đã chủ động phối hợp tốt với các lực lượng chức năng duy trì ổn định hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh.
đ) Lĩnh vực đầu tư xây dựng
Lĩnh vực đầu tư xây dựng được tập trung chỉ đạo quyết liệt ngay từ đầu năm, điều hành linh hoạt trong quá trình tổ chức thực hiện, huy động bổ sung các nguồn vốn cho các chương trình, dự án quan trọng; tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ thi công, chú trọng đảm bảo chất lượng công trình theo quy định; tích cực tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện kế hoạch đầu tư xây dựng.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tiếp tục được bổ sung, tăng cường. Trong năm, phê duyệt đầu tư 116 dự án với tổng vốn 2.897 tỷ đồng; khởi công mới 37 dự án, hoàn thành đưa vào sử dụng 30 dự án lớn; có thêm 2 xã có đường ô tô đến trung tâm xã đi được bốn mùa ; xây mới 11 trụ sở xã, phường; có thêm 300 ha đất lúa được tưới củng cố và tưới mở rộng; hoàn thành 57 phòng học, 14 phòng ở nội trú cho học sinh trường trung học cơ sở nội trú; 96,6% số hộ được dùng điện; 96% dân cư thành thị được sử dụng nước sạch và 83% dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh.
Giá trị khối lượng ước thực hiện các nguồn vốn do tỉnh quản lý 1.953,2 tỷ đồng, đạt 97,8% kế hoạch, tăng 10,6% cùng kỳ năm 2013 . Công tác giải ngân, thanh toán được kiểm soát chặt chẽ, đúng quy định. Ước thực hiện giải ngân thanh toán các nguồn vốn là 1.895,8 tỷ đồng, đạt 94,9% kế hoạch, bằng 97,0% khối lượng thực hiện. Tổ chức thẩm tra, phê duyệt quyết toán 145 công trình, dự án với tổng giá trị đề nghị thẩm tra 1.250 tỷ đồng, giá trị sau thẩm tra 1.230 tỷ đồng, giảm chi cho ngân sách nhà nước 20 tỷ đồng.
e) Phát triển doanh nghiệp, công tác xúc tiến đầu tư
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp tiếp tục được phục hồi, phát triển; thị trường, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh được mở rộng; một số doanh nghiệp tạm ngừng đã hoạt động trở lại. Trong năm 2014, có 250 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 673 tỷ đồng; hiện có 1.600 doanh nghiệp đang hoạt động, tổng số vốn đăng ký 7.328 tỷ đồng, tạo việc làm cho khoảng 29.000 lao động với mức thu nhập bình quân từ 3,5 - 4 triệu đồng/người/tháng, nộp ngân sách nhà nước trên 400 tỷ đồng.
Tiếp tục thực hiện cổ phần hóa đối với 2 doanh nghiệp nhà nước là Công ty TNHH một thành viên Đầu tư phát triển Nhà và Đô thị, Công ty TNHH một thành viên Đăng kiểm xe cơ giới Lạng Sơn; triển khai phương án bán vốn nhà nước tại Công ty Cổ phần Du lịch và Xuất nhập khẩu. Tiến hành xây dựng phương án sắp xếp 2 Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Đình Lập và Lộc Bình. Đã thành lập và đưa vào hoạt động Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ và Quỹ hỗ trợ phát triển Hợp tác xã, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn tín dụng.
Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được đẩy mạnh. Cấy giấy chứng nhận đầu tư cho 41 dự án vốn trong nước, tổng vốn đăng ký 2.245,2 tỷ đồng; điều chỉnh 20 dự án, vốn tăng thêm 337,1 tỷ đồng; chấm dứt hoạt động, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư 05 dự án. Hiện có 28 dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 224,7 triệu USD .
g) Công tác thu - chi ngân sách
Công tác quản lý, điều hành ngân sách tiếp tục được tăng cường. Tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác thu vào ngân sách các nguồn thu hiện có, đẩy mạnh tăng thu đối với các khoản thuế, phí, lệ phí còn thất thu, phát sinh và thu hồi nợ đọng thuế. Kết quả thu ngân sách đạt khá so với cùng kỳ. Tổng thu ngân sách trên địa bàn ước 4.693,2 tỷ đồng, đạt 143% dự toán, tăng 40,3% so với năm 2013, trong đó: Thu nội địa 810 tỷ đồng, đạt 105,2% dự toán, giảm 0,68%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 3.873,2 tỷ đồng, đạt 154,9% dự toán, tăng 53,8%; thu quản lý qua ngân sách 10 tỷ đồng, đạt dự toán, tăng 0,58%; thu phí sử dụng bến bãi khu vực cửa khẩu 571,1 tỷ đồng, đạt 228,5% dự toán, tăng 3%.
Công tác chi ngân sách được kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo chi đúng mục đích, đúng đối tượng, hiệu quả, tiết kiệm. Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 6.890,7 tỷ đồng, đạt 119% dự toán, tăng 8,8% so với năm 2013, trong đó: Tổng chi cân đối là 5.856,4 tỷ đồng, đạt 121,2% dự toán, tăng 10,3% ; chi các chương trình mục tiêu và nhiệm vụ khác 1.034,9 tỷ đồng, đạt 107,6% dự toán, tăng 1,3%.
2. Về văn hóa, xã hội
Nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được tập trung triển khai. Chất lượng dạy và học được nâng cao, hệ thống trường, lớp học, trang thiết bị được bổ sung. Tỷ lệ học sinh khá, giỏi của các cấp học, đạt giải học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh tăng, riêng học giỏi cấp quốc gia giảm so với năm học 2012 - 2013; hệ thống trường lớp được củng cố và phát triển . Thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục và huy động học sinh vào các cấp học, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi của 3 huyện, thành phố . Chuyển đổi 86 trường tiểu học và trung học cơ sở vùng đặc biệt khó khăn sang loại hình trường phổ thông dân tộc bán trú, tăng 13 trường so với năm trước. Hết năm 2014, có thêm 9 trường học đạt chuẩn quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn quốc gia toàn tỉnh lên 122 trường .
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình với nhiều hình thức phong phú, đa dạng đã tập trung tuyên truyền và tổ chức tốt các ngày lễ lớn, các nhiệm vụ chính trị của tỉnh, của đất nước. Tổ chức thành công Đại hội Thể dục thể thao lần thứ VII của tỉnh gắn với kỷ niệm 183 năm ngày thành lập tỉnh, 105 năm ngày sinh đồng chí Hoàng Văn Thụ. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh .
Chất lượng khám, chữa bệnh phục vụ nhân dân có chuyển biến tích cực . Tập trung chỉ đạo phòng, chống các dịch bệnh: Bệnh Sởi, tay chân miệng, cúm A H5N1, H7N9, vi rút Ebola..., không để xảy ra dịch trên địa bàn tỉnh. Hoàn thành chỉ tiêu tiêm đủ 8 loại vắc-xin cho trẻ em dưới 1 tuổi (90%), tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới mức 18,3%. Công tác an toàn vệ sinh thực phẩm cơ bản được bảo đảm . Mức giảm tỷ lệ sinh tự nhiên khoảng 0,1‰ (mục tiêu 0,2%o). Cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ cán bộ, y, bác sĩ đảm bảo công tác khám, chữa bệnh tại cơ sở . Tổng số giường bệnh công lập là 1.885 giường (không tính giường bệnh tại các trạm y tế xã), đạt tỷ lệ 24,8 giường bệnh/vạn dân (chỉ tiêu toàn quốc là 22,5 giường).
Công tác bảo đảm an sinh xã hội được chú trọng. Các chính sách đối với người có công, hộ nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội được thực hiện nghiêm túc, kịp thời . Giải quyết việc làm cho 12.764 lao động, đạt 102% kế hoạch. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 41,2%, tăng 2,2% so với năm 2013 . Tỷ lệ hộ nghèo còn 14,9% (giảm 3,1%). Tổng số thu bảo hiểm xã hội, y tế, thất nghiệp cả năm là 1.090 tỷ đồng, đạt kế hoạch .
3. Khoa học - công nghệ, tài nguyên và môi trường
Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống được quan tâm chỉ đạo. Đã triển khai 50 đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, trong đó 37 đề tài, dự án chuyển tiếp từ các năm trước sang; 13 đề tài, dự án mới năm 2014; tổ chức nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ của 22 đề tài, dự án. Thường xuyên kiểm tra đo lường - chất lượng, nhãn hàng hoá, mã số mã vạch, sở hữu công nghiệp, an toàn bức xạ hạt nhân.
UBND tỉnh ban hành 09 văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa, tổ chức triển khai thi hành Luật Đất đai năm 2013. Hoàn thành 09 cuộc thanh tra chuyên ngành đối với 14 tổ chức; qua thanh tra, kiểm tra đã xử lý vi phạm hành chính và kiến nghị truy thu số tiền sai phạm 403,5 triệu đồng; thu hồi 373,7ha đất sử dụng sai mục đích. Hoàn thành, phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2015 của 11/11 huyện, thành phố; xây dựng Bảng giá đất của tỉnh. Công tác đo đạc, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quản lý khai thác khoáng sản, bảo vệ môi trường được đẩy mạnh .
(Nguồn: langson.gov.vn)