I. KINH TẾ - XÃ HỘI
Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 của tỉnh và cả nước trong bối cảnh kinh tế thế giới có bước phục hồi nhưng chậm hơn so với dự báo; những bất ổn về chính trị, xung đột vũ trang còn diễn ra ở một số quốc gia, khu vực trên thế giới.
Trong nước, chính trị xã hội ổn định, tăng trưởng kinh tế có bước phục hồi nhưng môi trường kinh doanh và năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp trong khi yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng cao; nhu cầu cho phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh rất lớn nhưng nguồn lực còn hạn hẹp. Bên cạnh đó, tình hình thiên tai, dịch bệnh còn diễn biến phức tạp có ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống người dân.
Trong bối cảnh đó, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo điều hành, trọng tâm là ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ; xây dựng kế hoạch, chỉ đạo triển khai thực hiện các Nghị quyết của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2014, tập trung quyết liệt trong chỉ đạo điều hành các ngành, các cấp triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp nhằm sớm khắc phục những hạn chế, vượt qua khó khăn để ổn định nền kinh tế, tạo đà tăng trưởng bền vững, bảo đảm đời sống nhân dân.
Kết quả thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh năm 2014 như sau:
Ước thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu năm 2014 như sau:
STT | Chỉ tiêu | ĐVT | KH 2014 | Ước TH năm 2014 |
| a) Các chỉ tiêu về kinh tế |
|
|
|
1 | Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng | % | 7,00 | 7,00 |
2 | Giá trị sản xuất nông – lâm thủy sản tăng | % | 2,00 | 2,00 |
3 | Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng (IIP) | % | 13,50 | 13,10 |
4 | Giá trị các ngành dịch vụ tăng | % | 7,50 | 7,75 |
5 | GRDP bình quân đầu người (theo giá thực tế) | Tr. đồng | 34,50 | 35,40 |
6 | Cơ cấu GRDP (theo giá thực tế) |
|
|
|
| + Khu vực I | % | 31,10 | 34,76 |
| + Khu vực II | % | 23,00 | 21,18 |
| + Khu vực III | % | 45,90 | 44,06 |
7 | Tổng kim ngạch xuất khẩu | Tr. USD | 380 | 304,5 |
8 | Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội | Tỷ đồng | 11.000 | 10.804 |
9 | Tổng thu ngân sách trên địa bàn | Tỷ đồng | 3.621 | 4.250 |
10 | Tổng chi ngân sách địa phương | Tỷ đồng | 5.267 | 5.372 |
| b) Các chỉ tiêu phát triển xã hội |
|
|
|
11 | Tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật | % | 50 | 50,05 |
12 | Tạo thêm việc làm mới cho lao động | Người | 26.500 | 28.648 |
13 | Chuyển dịch cơ cấu lao động |
|
|
|
| + Lao động nông, lâm, thuỷ sản | % | 48,90 | 48,73 |
| + Lao động phi nông nghiệp | % | 51,10 | 51,27 |
14 | Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên | % | ổn định 1% | ổn định 1% |
15 | Giảm số hộ nghèo (theo tiêu chí năm 2011 - 2015) | % | 1,3 | 1,36 |
16 | Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn dưới | % | 15 | 15 |
17 | Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế | % | 68 | 68 |
18 | Phát triển nhà ở xã hội giai đoạn 2013 – 2014 |
|
|
|
| + Nguồn vốn ngân sách nhà nước | Căn | 50 | 50 |
| + Nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước | Căn | 400 | 400 |
| c) Các chỉ tiêu về môi trường |
|
|
|
19 | Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý | % | 75 | 85 |
20 | Tỷ lệ chất thải rắn đô thị được thu gom | % | 86 | 86 |
21 | Tỷ lệ các khu, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải | % | 100 | 100 |
22 | Chất thải, nước thải các cơ sở y tế được thu gom và xử lý | % | 100 | 100 |
23 | Tỷ lệ hộ đô thị sử dụng nước từ hệ thống nước máy tập trung | % | 98 | 95 |
24 | Tỷ lệ hộ nông thôn sử dụng nước sạch từ hệ thống cấp nước tập trung | % | 45 | 50 |
25 | Tiêu chí xã Nông thôn mới |
|
|
|
| - Đối với 02 xã điểm của tỉnh và 07 xã điểm của huyện, thị xã (9 xã) | Xã | Đạt xã nông thôn mới | Có 8/9 xã đạt |
| - Đối với 13 xã còn lại trong 22 xã
| Tiêu chí đạt thêm/xã | ≥ 4
| Có 11/13 xã đạt
|
| - Đối với các xã còn lại | Tiêu chí đạt thêm/xã | ≥ 3 | Có 46/67 xã đạt |
1. Thực hiện mục tiêu tăng trưởng, ổn định kinh tế và kiểm soát lạm phát
Việc tập trung triển khai thực hiện quyết liệt, có trọng tâm các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ, Nghị quyết của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, chủ động trong tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp/nhà đầu tư, cùng với tập trung triển khai đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, một số ngành sản xuất,… nên kinh tế năm 2014 tiếp tục tăng trưởng và dự kiến đạt kế hoạch đề ra.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh năm 2014 ước đạt 27.965 tỷ đồng, tăng 7% so với năm 2013. Trong đó, tỷ trọng khu vực nông lâm thủy sản chiếm 34,76%, khu vực công nghiệp – xây dựng chiếm 21,18% và khu vực dịch vụ chiếm 44,06%.
a) Giá cả lạm phát
Nhờ thực hiện tốt các giải pháp bình ổn thị trường, đảm bảo thị trường hàng hoá nhất là trong dịp tết, các ngày lễ lớn, v.v... cùng với giá một số mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, gas,…giảm đã góp phần làm ổn định giá cả hàng hoá trên thị trường. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 10 tháng năm 2014 tăng 3,8% so với cùng kỳ và thấp hơn 4,45 điểm % so với năm 2013([1]).
b) Thu chi ngân sách nhà nước
Công tác thu, chi ngân sách nhà nước trên địa bàn được thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ, Chỉ thị số 19/CT-TTg ngày 18/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ; sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, sự giám sát chặt chẽ của HDND tỉnh cùng với việc triển khai đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp về điều hành ngân sách nhà nước của UBND tỉnh nên kết quả thu chi ngân sách đạt khá.
Ước thu ngân sách nhà nước năm 2014 là 4.250 tỷ đồng, đạt 117,35% dự toán Hội đồng nhân dân giao. Trong đó, thu nội địa đạt 2.150 tỷ đồng, đạt 106,62%; thu xổ số kiến thiết 1.150 tỷ đồng, đạt 143,75%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 950 tỷ đồng, đạt 125% dự toán HĐND giao.
Tổng chi ngân sách nhà nước 5.372 tỷ đồng, đạt 102% dự toán. Trong đó, chi đầu tư phát triển 729 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch; chi thường xuyên 3.750 tỷ đồng, đạt 104,79% kế hoạch, v.v...
c) Tín dụng ngân hàng
Thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 15/01/2014 của Thống đốc NHNN Việt Nam về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả, UBND tỉnh chỉ đạo ngành ngân hàng cụ thể hóa thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để quản lý các hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn đảm bảo thực hiện tốt các quy định về lãi suất tín dụng, cho vay hỗ trợ nhà ở, thực hiện cho vay thu mua tạm trữ lúa gạo, v.v…
Huy động vốn ước đạt 79.200 tỷ đồng, tăng 18,3% so với đầu năm 2014; doanh số cho vay ước đạt 23.164 tỷ đồng, giảm 6,5%, dư nợ cho vay ước đạt 15.500 tỷ đồng, tăng 5% so với đầu năm, trong đó, dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn ước đạt 10.000 tỷ đồng, chiếm 60,6% tổng dư nợ. Lãi suất cho vay được các ngân hàng thương mại điều chỉnh giảm so với đầu năm, đối với 5 lĩnh vực ưu tiên giảm còn 7%/năm (giảm 2% so với đầu năm); đối với các lĩnh vực khác cũng được các ngân hàng điều chỉnh giảm từ 1-2%([2]). Thực hiện cơ cấu lại nợ cho 448 khách hàng với dư nợ được cơ cấu 541 tỷ đồng; tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất cho vay đối với các khoản nợ cũ có mức lãi suất cao nhằm hỗ trợ, giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp([3]).
Đã xử lý 78,4 tỷ đồng nợ xấu đối với các doanh nghiệp; tuy nhiên, do còn nhiều doanh nghiệp chậm phục hồi, một số không có khả năng phục hồi nên nợ xấu có tăng so với đầu năm. Nợ xấu toàn địa bàn 1.100 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 7,1%/tổng dư nợ, tăng 2,22 điểm % so với đầu năm.
d) Về đầu tư phát triển
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2014 ước đạt 10.804 tỷ đồng, đạt 98,22% kế hoạch và tăng 6,35% so với cùng kỳ năm 2013; trong đó, khu vực kinh tế Nhà nước tăng 0,64%, khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 8,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 4%.
Kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2014 được bố trí 1.993,216 tỷ đồng, việc cân đối bố trí các nguồn vốn được tập trung, có trọng tâm; ưu tiên bố trí cho các dự án/công trình thuộc các lĩnh vực y tế, giáo dục, hạ tầng nông nghiệp nông thôn, các xã nông thôn mới, các công trình về an ninh - quốc phòng, an sinh xã hội. Ngay từ đầu năm, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các ngành, địa phương tập trung triển khai thực hiện các dự án, công trình đảm bảo sớm hoàn thành đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, do còn những khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện nên khối lượng thực hiện 10 tháng đạt 1.335 tỷ đồng, đạt 67% kế hoạch (bằng 84% so với cùng kỳ năm 2013), giải ngân 1.151,5 tỷ đồng, đạt 57,8% kế hoạch (bằng 91% so với cùng kỳ năm 2013). Với sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ những khó khăn của UBND tỉnh và sự nỗ lực của các ngành, các cấp, ước thực hiện cả năm 2014 đạt 100% kế hoạch, giải ngân đạt 95% kế hoạch.
2. Phát triển trên lĩnh vực kinh tế
a) Sản xuất nông nghiệp – thủy sản
- Nông nghiệp:
Ủy ban nhân dân tỉnh đã tập trung chỉ đạo xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch về việc thực hiện Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp” năm 2014 và giai đoạn 2014 – 2020. Nhìn chung, bước đầu sản xuất nông nghiệp trong năm 2014 trong điều kiện khá thuận lợi so với các năm trước, cùng với việc bố trí lịch thời vụ sản xuất phù hợp nên năng suất bình quân cả năm và giá bán đạt khá cao[4], người nông dân có lãi. Giá trị sản xuất toàn ngành nông lâm nghiệp và thủy sản năm 2014 ước đạt 19.368 tỷ đồng, tăng 2% so với năm 2013; trong đó, ngành nông nghiệp tăng 3,75%, ngành thủy sản giảm 8,83%.
+ Cây lúa: Toàn tỉnh xuống giống được 180.206 ha, đạt 107,4% kế hoạch; năng suất bình quân đạt 6 tấn/ha, sản lượng thu hoạch 1.087.598 tấn. So với năm trước diện tích giảm 1%([5]), năng suất tăng 3,2%, sản lượng thu hoạch tăng 2,2%.
+ Cây màu: Nhờ chủ động và thực hiện có hiệu quả công tác phòng trị bệnh nên cây màu phát triển khá trên cả diện tích chuyên canh, luân canh và đa dạng về chủng loại; nhiều loại cây màu trúng mùa, giá bán cao, cho thu nhập khá đã thúc đẩy phong trào trồng màu tiếp tục phát triển. Diện tích gieo trồng các loại cây màu đạt 48.032 ha, tăng 8,2% so với năm 2013; trong đó, diện tích màu xuống ruộng 27.613 ha, chiếm trên 60% tổng diện tích xuống giống; diện tích màu tăng mạnh ở những loại cây có hiệu quả kinh tế cao như: Khoai lang, hành lá, dưa hấu, hẹ, xà lách xoong, v.v... Ước sản lượng màu cả năm đạt trên 955.727 tấn, tăng 7,8% so với năm 2013.
+ Cây ăn trái: Toàn tỉnh có 40.880 ha giảm 0,5% so với năm 2013, trong đó có 35.020 ha đang cho sản phẩm, sản lượng thu hoạch ước đạt 424.920 tấn, tăng 0,9 % so với năm 2013. Phần lớn các vườn cây ăn trái phát triển tốt, năng suất và hiệu quả đạt khá cao do công tác phòng trừ các loại sâu bệnh gây hại được kịp thời, nhất là bệnh sâu đục trái trên cây bưởi đã giảm cả về quy mô và tỷ lệ nhiễm bệnh, sản lượng tăng khá so với năm 2013. Bệnh chổi rồng trên cây nhãn tiếp tục được tập trung phòng trị, tuy nhiên, mức độ phục hồi thấp, diện tích và tỷ lệ nhiễm bệnh còn cao[6]; ngoài ra, bệnh chổi rồng đã xuất hiện và gây hại trên một số vườn cây chôm chôm[7].
+ Chăn nuôi: Trong năm 2014, đàn gia súc, gia cầm của tỉnh phát triển khá do giá tiêu thụ ở mức khá cao và ổn định trong thời gian dài[8], dịch bệnh được kiểm soát[9]. Ước đến thời điểm 01/10/2014, tổng đàn heo có 350.000 con, tăng 10%; đàn bò có 57.000 con, tăng 6%; đàn gia cầm 7,1 triệu con, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm 2013.
- Thủy sản:
Nghề nuôi cá tra tiếp tục gặp nhiều khó khăn, khả năng mở rộng quy mô, đầu tư nuôi thả mới vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu do giá cá nguyên liệu trong thời gian qua luôn ở mức thấp, giá bán dưới giá thành, có thời điểm giá tăng nhưng không kéo dài hoặc thời điểm người nuôi đã hết cá bán nên người nuôi không có lãi[10].
Toàn tỉnh có 276,6 ha mặt nước đang nuôi cá tra thâm canh, giảm 7 ha so với năm 2013; có 625 lồng bè đang thả nuôi, giảm 60 chiếc so với năm 2013 (đối tượng nuôi chủ yếu là cá điêu hồng). Tổng sản lượng thủy sản cả năm ước đạt 117.040 tấn, giảm 10% so với năm trước; trong đó, sản lượng nuôi trồng đạt 110.320 tấn, giảm 10,4%([11]). Mô hình nuôi cá tra với quy mô lớn an toàn vệ sinh thực phẩm tiếp tục được mở rộng, đã hình thành được nhiều vùng nuôi cá tra xuất khẩu, vùng nuôi cá điêu hồng trên sông; đến nay, có 90,65 ha nuôi trồng thủy sản được chứng nhận các tiêu chuẩn quốc tế (GlobalGAP/ASC/BMP) và tiêu chuẩnVietGAP.
b) Xây dựng nông thôn mới
Đầu tư phát triển nông thôn mới tiếp tục được các ngành, các cấp tập trung triển khai thực hiện, sự đồng thuận tham gia của người dân ngày càng nhiều. Các phong trào về xây dựng nông thôn mới tiếp tục được triển khai sâu rộng, hiệu quả đạt được ngày càng cao và tạo được sự lan tỏa sâu rộng trong nhân dân, nhất là người dân nông thôn. Đến nay, đã có 04 xã được công nhận đạt chuẩn Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2015([12]), dự kiến đến cuối năm 2014 có 08 xã đạt tiêu chí xã nông thôn mới. Đối với các xã còn lại, mức đạt các tiêu chí cũng tăng lên, nhất là 13 xã còn lại trong 22 xã điểm; đến nay, có 12 xã đạt từ 15-19 tiêu chí, có 47 xã đạt từ 10-14 tiêu chí, có 30 xã đạt từ 5-9 tiêu chí.
c) Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Năm 2014, tỉnh tiếp tục chủ động thực hiện các biện pháp tháo gỡ khó khăn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh cùng với sự nỗ lực vượt qua khó khăn của các doanh nghiệp nên hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tiếp tục duy trì được mức ổn định và phát triển khá; nhiều ngành, lĩnh vực có mức sản xuất suy giảm trước đây đã có xu hướng phục hồi và tăng trưởng; bên cạnh đó, một số năng lực sản xuất mới được đưa vào hoạt động, một số doanh nghiệp đã hoạt động trở lại sau thời gian tạm ngưng hoạt động([13]),… đã góp phần vào mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp. Chỉ số sản xuất công nghiệp trong năm 2014 ước tăng 13,10% so với cùng kỳ năm 2013; giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp ước đạt 21.757 tỷ đồng, tăng 13,49% so năm 2013([14]).
d) Thương mại, dịch vụ
Các giải pháp kiểm soát lạm phát, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, bảo đảm an sinh xã hội theo chỉ đạo, điều hành của Chính phủ được thực hiện tốt nên sức mua thị trường đã có sự khởi sắc, thương mại nội địa tiếp tục phát triển. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2014 ước đạt 31.414 tỷ đồng, tăng 11,6% so cùng kỳ năm 2013.
Hoạt động xuất khẩu của tỉnh gặp nhiều khó khăn, nhất là các sản phẩm chủ lực nên tổng kim ngạch xuất khẩu đạt thấp so với kế hoạch; ước kim ngạch xuất khẩu năm 2014 đạt 304,5 triệu USD, đạt 80% so kế hoạch năm và giảm 9% so cùng kỳ năm 2013. Nguyên nhân chủ yếu là do có một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu giảm, trong đó có mặt hàng chủ lực là gạo giảm 29,3%, kế đến là mặt hàng thủy sản giảm 67,7% so với cùng kỳ năm 2013([15]).
Tổng trị giá nhập khẩu trong năm ước đạt 156 triệu USD, giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước; các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là các loại nguyên vật liệu, phụ liệu, máy móc thiết bị, phục vụ cho sản xuất công nghiệp.
Năm 2014, lượng khách du lịch đến tỉnh ước đạt 950.000 lượt người, tăng 1% so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, khách quốc tế 200.000 lượt, khách nội địa 775.000 lượt. Tổng doanh thu đạt 210 tỷ đồng, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2013.
Vận tải hành khách: Ước vận chuyển được 32,87 triệu lượt khách với 800 triệu HK.Km; so với cùng kỳ năm trước giảm 3,17% về hành khách vận chuyển và giảm 3,54% về hành khách luân chuyển.
Vận tải hàng hóa: Ước vận chuyển được 4,51 triệu tấn với 267 triệu Tấn.Km, so với cùng kỳ năm trước tăng 3,63% về hàng hóa vận chuyển và tăng 4,25% về hàng hóa luân chuyển.
đ) Phát triển và hỗ trợ doanh nghiệp
- Phát triển doanh nghiệp dân doanh
Tính đến 31/10/2014, đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho 192 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký 717 tỷ đồng (so với năm 2013, số đăng ký giảm 23 doanh nghiệp, số vốn đăng ký giảm 228 tỷ đồng); cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động cho 46 chi nhánh và văn phòng đại diện. Lũy kế số doanh nghiệp đăng ký hoạt động đến nay là 3.738([16]) doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký là 18.064 tỷ đồng.
Do một số lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, cùng với việc khó tiếp cận nguồn vốn vay mới để mở rộng sản xuất([17]) v.v… đã ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa; số doanh nghiệp đăng ký giải thể là và ngừng hoạt động còn nhiều, có 62 doanh nghiệp giải thể([18]) với tổng số vốn 203 tỷ đồng (tăng 13 doanh nghiệp so với năm 2013) và có 33 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động kinh doanh (giảm 01 doanh nghiệp so với năm 2013).
Tiếp tục rà soát tình hình hoạt động của doanh nghiệp theo Quyết định 01/QĐ-BKHĐT ngày 03/01/2012 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đã xóa tên 297 doanh nghiệp, lũy kế đến nay đã xóa tên 525/1298 doanh nghiệp theo quy định (đạt 40,44%).
Đến nay, đã hoàn thành việc sắp xếp, cổ phần hóa đối với 24 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước theo tiến độ đã đề ra và đã chuyển giao 13 doanh nghiệp về Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước quản lý. Hoạt động sản xuất kinh doanh của 3 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước do tỉnh quản lý đều đạt hiệu quả, vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp được bảo toàn và liên tục phát triển[19]. Hiện nay, tỉnh đang tiến hành kế hoạch cổ phần hóa 02 doanh nghiệp (Công ty TNHH MTV Công trình công cộng Vĩnh Long và Công ty TNHH MTV Cấp nước Vĩnh Long); chuẩn bị thực hiện thoái vốn đối với 01 doanh nghiệp theo quy định của Trung ương (Công ty TNHH MTV Xổ số kiến thiết Vĩnh Long).
- Phát triển kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể tiếp tục được quan tâm, củng cố nâng chất lượng hoạt động và thực hiện chuyển đổi hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Trong năm, thành lập mới 06 Hợp tác xã (HTX), giải thể 02 HTX. Đến nay, toàn tỉnh có 115 HTX và 01 Liên hiệp HTX, với 7.360 thành viên và 8.959 lao động, tổng vốn điều lệ là 149,11 tỷ đồng; so với năm 2013, tăng 04 HTX, số thành viên tăng 58, số vốn điều lệ tăng 1,5 tỷ đồng. Qua đánh giá phân loại HTX, có 60 HTX xếp loại khá (chiếm tỷ lệ 52,17%), 33 HTX xếp loại trung bình (chiếm tỷ lệ 28,70%), 05 HTX yếu kém (chiếm tỷ lệ 4,35%), số còn lại do mới thành lập hoặc tạm ngừng hoạt động nên không đánh giá.
- Hỗ trợ doanh nghiệp
Tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu cho các doanh nghiệp trên địa bàn theo Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 và Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 và Nghị quyết số 61/NQ-CP ngày 21/8/2014 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 7/1/2013 của Chính phủ, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các cấp tiến hành khảo sát nắm bắt tình hình hoạt động đối với 99 lượt doanh nghiệp, trong đó trọng tâm là các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực: Sản xuất gạch - gốm, nuôi trồng - chế biến thủy sản, lĩnh vực nhà ở, đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, các ngân hàng thương mại… Kết quả, các khó khăn chủ yếu của các doanh nghiệp về các lĩnh vực như: giao đất thực hiện dự án đầu tư, về chuyển mục đích sử dụng đất, gia hạn thời gian chuyển mục đích sử dụng đất, về cơ cấu nợ, thực hiện những ưu đãi về thuế, về thị trường tiêu thụ sản phẩm,…
UBND tỉnh đã tổ chức nhiều cuộc tiếp xúc và làm việc trực tiếp với các doanh nghiệp, những khó khăn kiến nghị của doanh nghiệp đã được UBND tỉnh, các Sở ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố giải quyết theo thẩm quyền; đối với những kiến nghị vượt thẩm quyền của tỉnh, tỉnh đã có kiến nghị đối với Chính phủ, các Bộ ngành Trung ương xem xét có hướng hỗ trợ giúp cho doanh nghiệp vượt qua khó khăn trong giai đoạn hiện nay([20]).
e) Hoạt động xúc tiến
Xúc tiến đầu tư: Trong năm, tiếp xúc và làm việc với 65 lượt nhà đầu tư (có 25 lượt nhà đầu tư nước ngoài), sau khi đàm phán có 11 dự án được chấp nhận chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn đăng ký hơn 3.107 tỷ đồng, trong đó, có 03 dự án FDI với vốn đầu tư 33,1 triệu USD. Lũy kế toàn tỉnh có 322 dự án đầu tư (trong đó có 28 dự án có vốn đầu tư nước ngoài) với tổng số vốn đầu tư 23.239,2 tỷ đồng và 137,9 triệu USD. Ngoài ra, để tăng cường giới thiệu hình ảnh, môi trường đầu tư của tỉnh với các nhà đầu tư trong và ngoài nước, tỉnh đã chủ động tổ chức và tham gia nhiều chương trình xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước([21]).
Xúc tiến thương mại: Tổ chức “Hội chợ Thương mại - Nông nghiệp Tam Bình, Vĩnh Long 2014”, thu hút 100 doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh tham gia với 180 gian hàng; tổ chức 05 phiên chợ đưa hàng Việt về nông thôn với 84 lượt doanh nghiệp tham gia([22]). Hỗ trợ 26 lượt doanh nghiệp tham gia 12 cuộc hội chợ ngoài tỉnh với các mặt hàng chủ yếu như: thực phẩm, tiêu dùng, giống cây trồng, v.v... Qua đó, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong tỉnh tăng cường giao lưu mua bán hàng hoá, mở rộng thị trường.
Ngoài ra, tỉnh đã tổ chức đoàn doanh nghiệp tham dự Hội chợ Thương mại tại tỉnh Kampongspeu - Vương quốc Campuchia, có 08 đơn vị tham gia với 10 gian hàng, các mặt hàng chủ yếu như: dược phẩm, trang trí nội thất, cửa nhôm kính, trứng muối, bánh kẹo, nước chấm, v.v... tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp mở rộng thị trường ngoài nước.
Xúc tiến du lịch: Tham gia Hội chợ Thương mại Du lịch và Hội nghị Xúc tiến Đầu tư Du lịch trong khuôn khổ Festival Đờn ca tài tử Bạc Liêu; Hội chợ Du lịch quốc tế ITE lần thứ 10 tại thành phố Hồ Chí Minh. Liên kết với các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh và Tiền Giang tham gia “Ngày hội Du lịch năm 2014” tại thành phố Hồ Chí Minh và Hội chợ Du lịch Quốc tế Việt Nam lần thứ II tại Hà Nội, v.v… thông qua các gian hàng, đã giới thiệu, quảng bá các sản phẩm du lịch của tỉnh và tạo được sự chú ý thu hút du khách đến tham quan.
g) Tài nguyên, môi trường
Đến nay, tỉnh đã thực hiện hoàn thành công tác lập và xét duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu 2011 – 2015 cho 3 cấp; thực hiện tốt công tác thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Dự án VLAP đã đo đạc, lập bản đồ địa chính cho 120.617 ha, đạt 84,23% diện tích theo hợp đồng; tiếp nhận hồ sơ kê khai đăng ký 71.999 thửa đất; trong đó, đã xét duyệt được 43.497 thửa, cấp giấy chứng nhận lập hồ sơ địa chính cho 21.403 thửa (đạt 31,11%).
Công tác quản lý tài nguyên khoáng sản, công tác bảo vệ môi trường tiếp tục được quan tâm thực hiện tốt; công tác khảo sát, kiểm tra tình hình khai thác cát sông trên địa bàn tỉnh; việc chấp hành pháp luật về đất đai, bảo vệ tài nguyên và môi trường nước tại các khu công nghiệp được thực hiện theo đúng quy định. Thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra về khai thác cát sông, tình hình vận hành, hoạt động xử lý chất thải tại các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh, vận chuyển và xử lý chất thải, đã kịp thời ngăn chặn, xử lý những vi phạm về môi trường([23]).
3. Lĩnh vực an sinh, phúc lợi xã hội
a) Lao động, việc làm
Thực hiện tốt và đồng bộ các chương trình như: Chương trình đào tạo nghề cho lao đông nông thôn, Chương trình vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm, hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, hỗ trợ phát triển thị trường lao động thông qua sàn giao dịch việc làm,… Trong năm, đã giải quyết việc làm cho 28.648 lao động, đạt 108,1% so với kế hoạch; trong đó, xuất khẩu lao động 466 người. Đã tuyển sinh dạy nghề cho 35.884 lao động (trong đó đào tạo 14.285 lao động nông thôn), đạt 101,31% kế hoạch, ). Ước tính đến cuối năm, tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật của tỉnh đạt 50,05%, trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 32,13%.
b) An sinh xã hội, giảm nghèo
Công tác an sinh xã hội, giảm nghèo tiếp tục được quan tâm thực hiện tốt. Trong năm, vận động hỗ trợ quà Tết cho 31.239 hộ nghèo, hộ cận nghèo với tổng kinh phí 10.726 triệu đồng; giải quyết cho 14.373 lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo đủ điều kiện được vay vốn với số tiền 126,597 tỷ đồng; giải quyết bảo hiểm y tế cho 55.656 người nghèo và 38.884 người cận nghèo; vận động xây 463 căn nhà đại đoàn kết với tổng giá trị 10,638 tỷ đồng.
Các giải pháp giảm nghèo được thực hiện đồng bộ, hiệu quả, tạo điều kiện để các hộ nghèo vươn lên thoát nghèo. Trong năm, số hộ nghèo giảm 3.758 hộ, số hộ nghèo phát sinh mới 810 hộ, tái nghèo 90 hộ([24]).
c) Thực hiện chính sách ưu đãi người có công
Năm 2014, đã chi trả trợ cấp cho 152.928 lượt đối tượng người có công với kinh phí 204 tỷ đồng; tặng quà cho gia đình chính sách nhân dịp Tết nguyên đán, nhân kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên phủ, ngày thương binh liệt sỹ 53.694 lượt phần quà, với số tiền 13.560 triệu đồng; xây dựng, sửa chữa hoàn thành 742 căn nhà cho gia đình chính sách, người có công; vận động quỹ Đền ơn đáp nghĩa đạt trên 4,5 tỷ đồng. Tổ chức lễ phong tặng, truy tặng 1.450 Mẹ Việt Nam anh hùng; phát động các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, các nhà hảo tâm phụng dưỡng 218 mẹ([25]); thực hiện chế độ bảo hiểm y tế cho 3.157 đối tượng là thân nhân người có công theo quy định.
4. Lĩnh vực y tế
Công tác kiểm tra, giám sát tình hình dịch bệnh tiếp tục được thực hiện nghiêm túc tại các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh; đồng thời, tiếp tục thông tin, tuyên truyền để người dân nhận thức về lợi ích của việc tiêm phòng và đưa người thân trong độ tuổi tiêm chủng đi tiêm phòng các bệnh dịch nguy hiểm; trẻ em dưới 1 tuổi tiêm chủng đầy đủ, phụ nữ có thai tiêm VAT2+ đạt tỷ lệ khá cao([26]).
Cơ sở vất chất ngành y tế tiếp tục được quan tâm đầu tư([27]), trang thiết bị y tế tuyến cơ sở, tuyến huyện được đầu tư cơ bản đáp ứng yêu cầu khám và điều trị bệnh cho nhân dân; nguồn nhân lực được quan tâm đào tạo bồi dưỡng, chất lượng khám chữa bệnh ở các cơ sở y tế tiếp tục được nâng lên, góp phần giảm áp lực cho các bệnh viện tuyến trên. Toàn tỉnh có 21,48 giường/10.000 dân tăng 1,83 giường bệnh so với năm 2013; có 5,44 bác sĩ/10.000 dân, tăng 0,12 bác sĩ so với năm 2013.
Trong năm, đã ghi nhận 5.320 trường hợp mắc bệnh đường tiêu hóa, giảm 1.622 trường hợp; 246 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, giảm 424 trường hợp; 2.534 trường hợp bệnh tay - chân - miệng, giảm 391 trường hợp so với năm 2013, có 24 trường hợp mắc bệnh sởi, v.v...; phát hiện 124 trường hợp nhiễm HIV mới, nâng tổng số toàn tỉnh có 2.519 trường hợp nhiễm HIV, trong đó có 1.388 trường hợp chuyển sang giai đoạn AIDS và 737 trường hợp tử vong; có 121 trẻ em nhiễm HIV, trong đó có 36 trẻ tử vong. Đã khám chữa bệnh cho 2.532.884 lượt người, trong đó khám BHYT cho 1.432.123 lượt người.
Công tác tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm, bếp ăn tập thể, v.v... được thực hiện thường xuyên và đã hạn chế xảy ra ngộ độc thực phẩm([28]).
Đến nay, có 669.579[29] người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tăng 54.412 người (tương ứng 8,8%) so với năm 2013, đạt 102,5% kế hoạch; có 709.663([30]) người tham gia BHYT, chiếm 68% dân số (chỉ tiêu 68%).
5. Lĩnh vực giáo dục và đào tạo; khoa học - công nghệ
a) Giáo dục - đào tạo
Cơ sở vật chất phục vụ dạy và học tiếp tục được đầu tư, các trường, lớp đã được kiên cố hóa, công tác đầu tư trường đạt chuẩn quốc gia đã và đang từng bước đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục; toàn tỉnh có 130/462 trường đạt chuẩn quốc gia chiếm tỷ lệ 28,14%, so với năm 2013 tăng 23 trường; số phòng học mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên được xây dựng kiên cố đạt tỷ lệ 98,52%.
Tỷ lệ huy động trẻ vào nhà trẻ đạt 6,03%, trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo và trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%, trung học cơ sở đạt 88,21% (tăng 3,44% so với năm 2013), trung học phổ thông đạt 55,29% (giảm 6,1% so với năm 2013). Bên cạnh đó, toàn ngành đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để vận động học sinh bỏ học trở lại trường, năm học 2013 - 2014 có 1.397 học sinh bỏ học, giảm 0,18% so với năm học 2012 - 2013.
Kết quả thi học sinh giỏi cấp quốc gia (lớp 12) năm học 2013-2014 đạt 11 giải, tăng 4 giải so với năm học 2012-2013; học sinh giỏi cấp tỉnh đạt 1.195 giải. Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông diễn ra nghiêm túc, an toàn; kết quả tỷ lệ đỗ tốt nghiệp đạt 99,11%, so với năm học trước tăng 0,54%. Kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2014 có 3.515 học sinh đậu đại học, tăng 894 học sinh so với năm 2013.
b) Khoa học - công nghệ
Năm 2014, tỉnh đã phê duyệt danh mục nhiệm vụ khoa học công nghệ cho 09 đề tài, nghiệm thu tổng kết 07 đề tài cấp tỉnh, 04 đề tài cấp cơ sở; xét chọn thực hiện 33 đề tài cơ sở, xét duyệt đề cương 05 đề tài/dự án cấp cơ sở. Các đề tài/dự án nghiên cứu khoa học đều xuất phát từ việc giải quyết các nhu cầu bức thiết, gắn với thực tiễn, trong đó tập trung nghiên cứu nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, các mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới.
Hướng dẫn 41 hồ sơ đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, sáng chế và kiểu dáng công nghiệp([31]); đến nay, toàn tỉnh có 845 nhãn hiệu hàng hóa, 87 kiểu dáng công nghiệp, 9 giải pháp hữu ích được cấp văn bằng xác lập quyền sở hữu công nghiệp. Hướng dẫn 327 doanh nghiệp xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001:2008, xây dựng tiêu chuẩn cơ sở, công bố tiêu chuẩn áp dụng và ghi nhãn hàng hóa theo quy định; các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp phát triển tài sản trí tuệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa được đẩy mạnh đã góp phần mang lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp.
Cơ sở vật chất cho khoa học công nghệ được tăng cường đầu tư tạo điều kiện cho khoa học công nghệ của tỉnh hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.
6. Lĩnh vực văn hóa, thể dục, thể thao; thông tin truyền thông
a) Về văn hóa, thể dục, thể thao
Tổ chức thành công các hoạt động chào mừng các ngày lễ, các sự kiện văn hóa như: Họp mặt kỷ niệm 84 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Giỗ tổ Hùng Vương; kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ kết hợp 39 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, v.v... Công tác tổ chức các ngày lễ, kỷ niệm, các sự kiện văn hóa lớn của tỉnh được tổ chức trang trọng, an toàn, phát huy được hiệu quả xã hội.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ngày càng phát triển, đến nay đã công nhận 234.299/256.209 gia đình văn hóa, đạt 91,4%; 274/847 ấp - khóm văn hóa; 93,6% cơ quan, đơn vị đạt tiêu chuẩn văn hóa. Các thiết chế văn hóa, điểm sinh hoạt văn hóa, các lễ hội dân gian, các di tích lịch sử, bia truyền thống, bia kỷ niệm được quan tâm xây dựng, tôn tạo đã góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc trong nhân dân, góp phần phát triển du lịch của tỉnh.
Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện theo gương Bác Hồ vĩ đại” tiếp tục phát triển tốt, phong trào thể dục thể thao quần chúng được phát triển mạnh từ thành thị đến nông thôn, có 28,7% dân số trong tỉnh tham gia tập luyện thể dục thường xuyên. Tổ chức thành công 25 giải thể thao, hội thao cấp tỉnh, khu vực và toàn quốc; thể thao thành tích cao tiếp tục giữ vững thành tích tốt, đã tham dự các giải thể thao trẻ, vô địch cấp khu vực, toàn quốc và quốc tế đạt 256 huy chương các loại (84 vàng, 69 bạc, 103 đồng), trong đó có 12 huy chương ở các giải quốc tế.
b) Về thông tin, truyền thông
Thực hiện tốt công tác tuyên truyền cổ động phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương như tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tuyên truyền biển đảo Việt Nam, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, xây dựng nông thôn mới, người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, gương người tốt việc tốt, v.v...; thông tin nhanh và kịp thời các sự kiện, định hướng dư luận và hướng dẫn xã hội hoạt động theo hướng tích cực, phục vụ tốt cho việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin tại các cơ quan hành chính nhà nước góp phần giảm các thủ tục hành chính, tổ chức triển khai thực hiện văn bản chữ ký số không đính kèm văn bản giấy, sử dụng thư điện tử để trao đổi công việc, v.v… Toàn tỉnh có 1.165 dịch vụ hành chính công được cung cấp trực tuyến, trong đó có 1.014 dịch vụ đạt mức độ 2 và 151 dịch vụ đạt mức độ 3.
Công tác bảo đảm an toàn an ninh thông tin được chú trọng, đã theo dõi, phát hiện, xử lý kịp thời những thông tin, sự cố mạng đảm bảo cho hệ thống mạng của tỉnh an toàn và bảo mật. Công tác xuất bản, báo chí được quản lý chặt chẽ, không có hiện tượng hoạt động trái phép, sai nội dung; đồng thời, định hướng tốt công tác thông tin truyên truyền các sự kiện văn hóa, kinh tế - xã hội trong nước, trong tỉnh.
[1] Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 10 tháng của một số nhóm hàng hoá, dịch vụ tăng nhẹ so với cùng kỳ như: Điện và dịch vụ điện tăng 5,11%, dịch vụ giáo dục tăng 5%, dụng cụ y tế tăng 4,6%, dịch vụ ăn uống gia đình tăng 4,66%, thực phẩm tăng 7%, v.v...
[2] Lãi suất cho vay của NHTM nhà nước: 9-10% đối với vay ngắn hạn và 9-12,5% đối với vay trung và dài hạn; lãi suất cho vay của NHTMCP: 9-12% đối với các vay ngắn hạn và 10-13,5% đối với vay trung và dài hạn. Các khoản nợ cũ của doanh nghiệp được điều chỉnh giảm về mức hợp lý, cụ thể: Tổng nợ có lãi suất từ 13-15% chiếm 5,9% (đầu năm là 9,83%), nợ có mức lãi suất dưới 13% chiếm 92,4% (đầu năm là 87,19%).
[3] Tỷ trọng dư nợ tại các NHTM như sau: 52,2% dư nợ cho vay mức lãi suất tối đa 9%/năm; 26% dư nợ mức lãi suất từ trên 9% đến 11%/năm; 14,2% dư nợ mức trên 11% đến 13%/năm; 5,9% dư nợ mức lãi suất 13-15%/năm (giảm 3,93 điểm % so với đầu năm); 1,65% dư nợ mức lãi suất trên 15% (giảm 1,33 điểm % so với đầu năm).
[4] Thời vụ sản xuất lúa được bố trí sớm hơn 01 tháng so với các tỉnh trong khu vực, nên trong năm phần lớn diện tích lúa được thu hoạch sớm và bán được giá cao.
[5] Diện tích lúa giảm chủ yếu để chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
[6] Tổng diện tích nhiễm 4.960,7 ha, trong đó có 2.243,4 ha nhiễm nặng; Diện tích nhãn đã đốn bỏ 1.430,7 ha và trồng lại các loại cây trồng khác như: chôm chôm, rau màu, nhãn Edor, nhãn Thạch Kiệt, bưởi, chanh, dừa,…
[7] Bệnh chổi rồng trên chôm chôm: xuất hiện và gây hại trên 8,7 ha; nhiễm nhẹ với tỷ lệ dưới 30%
[8] So năm 2013 giá heo tăng 1,4-1,6 triệu đồng/tạ, gà thả vườn tăng 6.000-8.000đ/kg, gà công nghiệp trắng tăng 6.000-8.000đ/kg
[9] Trong năm không xảy ra bệnh LMLM trên gia súc, bệnh tai xanh trên đàn heo. Riêng bệnh cúm gia cầm, phát hiện 12 ổ dịch với 10.585 con gia cầm (2.200 con gà, 8.385 con vịt), các ổ dịch được khống chế kịp thời không để lây lan.
[10] Giá thu mua cá tra nguyên liệu tại ao trong 5 tháng đầu năm dao động từ 21.000 – 25.000 đ/kg, giá cá tra bình quân từ tháng 6 đến tháng 9 đã giảm còn 21.500-22.500 đ/kg trong khi giá thành sản xuất dao động từ 22.000-22.500đ/kg, người nuôi lỗ từ 1.000-2.000 đ/kg. Thời điểm giữa tháng 9 đến tháng 10/2014 giá cá tra nguyên liệu tăng trở lại và dao động từ 23.000-24.200 đ/kg, tăng trên 1.000 đ/kg so với các tháng trước, người nuôi có lãi từ 500-1.000 đ/kg.
[11] Riêng cá tra nuôi thâm canh đạt 90.000 tấn, giảm 11,2 %.
[12] Xã Long Mỹ, huyện Mang Thít; xã Thành Đông, huyện Bình Tân; xã Trung Hiếu, huyện Vũng Liêm và xã Mỹ Lộc, huyện Tam Bình.
[13] Nhiều doanh nghiệp sản xuất gạch được hỗ trợ chuyển giao công nghệ lò nung liên hoàn đã hoạt động có hiệu quả, sản lượng gạch nung tăng 64,13% so với cùng kỳ năm 2013.
[14] Một số ngành công nghiệp có mức sản xuất tăng cao so với cùng kỳ năm 2013 như: Sản xuất vôi, thạch cao tăng 45,31%; sản xuất mỹ phẩm, xà phòng, chất tẩy rửa tăng 48,51%; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng tăng 20%; may trang phục tăng 31,27%, sản xuất giày dép tăng 21%,v.v… Một số ngành có mức sản xuất giảm như: Sản xuất sản phẩm thuốc lá giảm 31,51%; thức ăn gia súc giảm 8,42%; phân bón hóa học giảm 27,52%, v.v…
[15] Mặt hàng gạo đang gặp khó khăn do phải chịu sự cạnh tranh gay gắt về phẩm cấp và giá xuất khẩu nên xuất khẩu sang các thị trường truyền thống giảm so với cùng kỳ năm 2013. Riêng đối với mặt hàng thủy sản đang gặp rào cản về thuế quan và kỹ thuật của nhiều nước; đồng thời, có thời điểm do thiếu nguồn nguyên liệu tại chỗ nên không có khả năng thực hiện các hợp đồng xuất khẩu với số lượng lớn.
[16] Trong số này có 773 doanh nghiệp không hoạt động theo số liệu điều tra năm 2013, đang chờ làm thủ tục xóa theo Quyết định 01/QĐ-BKHĐT ngày 03/01/2012 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
[17] Mặc dù các doanh nghiệp đã được cơ cấu lại nợ (có doanh nghiệp được cơ cấu đến 05 lần), giảm lãi suất cho vay với lãi suất cao từ những năm trước về mức hợp lý nhưng các doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận các nguồn vốn vay mới do không có tài sản thế chấp, không có phương án kinh doanh khả thi, một số doanh nghiệp không hợp tác tích cực với các ngân hàng, cơ quan nhà nước trong giải quyết các vấn đề có liên quan.
[18] DNTN giải thể 32 DN, Cty TNHH MTV:16, Cty TNHH 2 TV trở lên:13, Cty cổ phần: 01.
[19] Doanh thu năm 2013 của 3 doanh nghiệp đạt 2.668,5 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 465,69 tỷ, nộp ngân sách 982,15 tỷ (tổng nộp giai đoạn 2011-2013 là 2.808,3 tỷ đồng) góp phần quan trọng trong hoàn thành kế hoạch thu ngân sách của tỉnh.
[20] Đã giải quyết cho doanh nghiệp nhiều vấn đề như: Cơ cấu lại nợ, giảm lãi suất cho vay đối với những khoản nợ cũ; gia hạn nộp tiền sử dụng đất cho 01 DN với số tiền 33 tỷ đồng; giảm tiền thuê đất cho 21 DN với số tiền 2,868 tỷ đồng; hỗ trợ gia hạn thời gian chuyển mục đích sử dụng đất, cấp chứng nhận quyền sử dụng đất, thủ tục giao đất; về chuyển đổi các dự án sang nhà ở xã hội, v.v...
[21] Tổ chức đoàn công tác sang thăm, làm việc và ký kết hợp tác đầu tư, giao lưu văn hóa, thể thao, du lịch giữa tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Yamaguchi – Nhật Bản; tham dự Hội nghị xúc tiến Đầu tư tại TP. Amsterdam – Hà Lan, chương trình xúc tiến Đầu tư tại TP.Ghent – Vương quốc Bỉ; Quảng bá, giới thiệu hình ảnh của tỉnh với các nhà đầu tư trong và ngoài nước tại 09 cuộc Hội thảo, Hội nghị do các Bộ, Ngành Trung ương, VCCI – chi nhánh Cần Thơ và các tỉnh tổ chức. Giới thiệu các doanh nghiệp tham gia các cuộc hội trong tỉnh, tham gia hội chợ trong sự kiện MDEC tại tỉnh Sóc Trăng và một số tỉnh thành khác.
[22] Doanh số hội chợ trong tỉnh đạt trên 1,8 tỷ đồng, ngoài tỉnh đạt trên 1,950 tỷ đồng, ngoài nước đạt 25.000 USD.
[23] kiểm tra đã phát hiện 46 chủ phương tiện vi phạm về khai thác cát sông (không phép), các trường hợp vi phạm đều được xử lý theo quy định.
[24] Tổng số hộ nghèo toàn tỉnh là 9.765 hộ (chiếm 3,54%). Số hộ cận nghèo là 11.823 hộ (chiếm 4,28%). Số hộ nghèo giảm 1,36% so với năm 2013.
[25] Trong đó, phong tặng 236 Mẹ, truy tặng 1.214 Mẹ; hiện có 100% Mẹ Việt Nam Anh hùng được phụng dưỡng.
[26] Trẻ em dưới 1 tuổi tiêm phòng đầy đủ đạt 95%, phụ nữ từ 15-35 tuổi tiêm VAT2+ đạt 85%, phụ nữ mang thai tiêm VAT2+ đạt 85%.
[27] Đầu tư xây mới các bệnh viện tuyến huyện cơ bản hoàn thành (Bệnh viện đa khoa huyện Tam Bình được đưa vào sử dụng đầu năm 2014, Bệnh viện đa khoa huyện Bình Tân dự kiến hoàn thành trong năm 2015, tuyến tỉnh Bệnh viện đa khoa tỉnh với quy mô 800 giường, bệnh viện Lao và bệnh phổi, bệnh viện Tâm thần đang triển khai thực hiện).
[28] Trong năm, đã xảy ra 02 vụ ngộ độc thực phẩm với 263 người bị ngộ độc, các trường hợp ngộ độc được chữa trị kịp thời nên sớm hồi phục sức khoẻ.
[29] Bảo hiểm xã hội bắt buộc là 61.777 người, tăng 2.227 người (tương ứng 3,7%) so với năm 2013. Bảo hiểm xã hội tự nguyện là 812 người, tăng 106 người (tương ứng 15,0%) so với năm 2013. Bảo hiểm thất nghiệp là 52.868 người, tăng 2.365 người (tương ứng 4,7%) so với năm 2013.
[30] Gồm Bảo hiểm y tế của tỉnh 668.767 người, các đối tượng quân đội và thân nhân 3.396 người, công an 2.500 người và đối tượng lao động đi ra ngoài tỉnh có thẻ 35.000 người.
[31] Sản xuất kẹo, bún, nước mắm, nước tương, bánh ngọt, nước uống đóng chai, kinh doanh trà, may mặc, vật liệu xây dựng, trang trí nội thất, kinh doanh sơn, phân bón.
(Trích Báo cáo số 249/BC-UBND của UBND tỉnh Vĩnh Long ngày 19/11/2014)