Rồng và Tiên trong lịch sử đồ tượng Việt Nam
Truyện Họ Hồng Bàng (Lĩnh Nam chích quái, thế kỷ 15) có chi tiết đáng chú ý: Lạc Long Quân dạy dân vùng cao xăm mình để tránh bị giao long làm hại. Con rồng Việt Nam xuất phát cụ thể từ con vật gọi là giao long/ thuồng luồng.
Một số nhà nghiên cứu khẳng định vật tổ của người Việt là con "cá sấu" (Theo Từ điển Tiếng Việt của Văn Tân), là con "lân trùng" (rắn có vảy) hay con "giao long", một loài cá sấu (Ðinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên - Văn học dân gian Việt Nam). Và Nguyễn Minh Hiệu đã chứng minh bằng nhiều cứ liệu: con rồng Việt chính là con cá sấu, vật tổ chính của người Việt cổ (tạp chí Khảo cổ học, 1983, số 2). Khởi đi từ con rồng - sấu, con rồng Việt trong lịch sử đã biến đổi nhiều do sự tích hợp các yếu tố du nhập từ bên ngoài.
A. Các dạng Rồng.
1. Rồng - Sấu: Hình 1a
2. Rồng sấu - Rắn:
Rồng (đầu là cá sấu, dưới là rắn cuộn) trên tấm yểm tâm của áo giáp ở Ninh Bình.
3. Rồng - Rắn với đầu cá sấu:
Rìu vai, đồng, thế kỷ 5-3 trước CN, Ðồng Sơn, Bảo tàng lịch sử Hà Nội.
4. Rồng Mèo:
Rồng - Mèo là hình dạng rồng in trên mảnh sành được phát hiện ở Bắc Ninh: đầu sấu đã biến mất, đầu ngắn hơn và cổ dài, cánh và vây lưng là những đường vạch dài, râu và lông ở khuỷu chân đã có hình dạng của con rồng Ðại Việt.
5. Con Rồng thời Ngô (939 - 965):
Thể hiện trên một viên gạch tìm thấy ở Cổ Loa, chiều dài chung có ngắn, thân mèo, vây lưng cá.
6. Rồng - Rắn:
Là hình dạng loài rồng nổi tiếng của Thời Lý (1010 - 1225). Hình (6. a).
Và Thời Trần (1225-1400). Rồng thời kỳ này là biểu tượng cho vua, cho sự thịnh vượng. Có điều, con rồng Lý là rồng-văn, còn rồng Trần là rồng - võ, tức rồng Trần dũng mãnh hơn rồng Lý. Hình (6. b).
7. Rồng - Ðầu sư tử/ Lân:
Con rồng đời Lê tuy vẫn kế thừa hình tướng của rồng thời Lý - Trần, nhưng cũng đã du nhập ngoại dạng của rồng phương Bắc: dữ, uy nghi. Thời Tây Sơn phục hồi hình dạng của rồng đời Trần và Lê Sơ: thân rồng đẹp, mềm mại và cái đầu dũng mãnh. Ðầu rồng này giống như hình rồng trên đồng tiến Cảnh Thịnh (1792-1802): đầu sư tử/ lân.
8. Rồng thời Nguyễn:
Giai đoạn 1802-1883; sự mới mẻ của nó là đuôi xoắn ốc và toả nhiều vây dạng đao lửa dài. Rồng thời Nguyễn giai đoạn 1883-1945 biến đổi theo sự suy đổi của nghệ thuật giai đoạn này: mất đi vẻ tự nhiên và dũng mãnh, trở nên thô cứng và ước lệ.
B. Các dạng Tiên.
Chim lạc và Âu cơ:
Nếu truyện Họ Hồng Bàng trong Lĩnh Nam chích quái nói về tục vẽ mình theo hình giao long đã cho thấy người Việt cổ đồng nhất mình với vật tổ giao long, thì hình người hoá trang/ đội lốt chim trên các trống đồng đã cho thấy người Việt cổ cũng đồng hoá mình với chim. Giao long và chim là vật tổ của người Việt cổ (Văn Lang hay Lạc Việt).
Chim thấy trên trống đồng gồm loại chim bay và chim đứng. Loại chim bay là chim lạc. Chim đứng trên mái nhà hình thuyền giống chim công, gà và đa số đứng dưới đất là loài chim nước: cò, bồ nông, xít...
Kết hợp thể "âm dương lưỡng hợp" chim-rồng ở đây là giao long và chim lạc. Ðó là những biểu hiện đơn nhất ở một số mặt trống đồng (Hòa Bình, Phú Xuyên) và không thuần nhất, tức chim lạc xen với các loại chim nước (âu) khác ở một số mặt trống đồng khác. Phải chăng do hiện tượng không thuần nhất này mà Lạc - Long đã thành Lạc Long Quân - Âu Cơ? Chim-rồng là đề tài còn bảo lưu mãi về sau: hình in trên viên gạch phát hiện ở chùa Lim trong một ngôi mộ cổ (Thế kỷ 1, sau CN).
Cha Rồng - Mẹ Tiên:
Lạc Long Quân - Âu cơ ở đây đã là tôn danh: Quân (vua) và Cơ (cũng gọi là ky: mỹ hiệu của phụ nữ) theo Ðào Duy Anh (Hán Việt từ điển). ở đây vấn đề cần giải quyết là tại sao "Lạc Long Quân - Âu cơ" lại trở thành "Cha Rồng - mẹ Tiên"?
Việc xác định tông tích của Âu Cơ là tiên xuất hiện lần đầu trong Lĩnh Nam chích quái (thế kỷ 15) tại đoạn đối thoại của Lạc Long Quân: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất...". Do đó việc giải đáp vấn nạn trên buộc phải truy cứu các dữ liệu lịch sử-văn hóa của thời đại đó, tức trong và trước thế kỷ 15: thời Lý - Trần. Cụ thể trong nghệ thuật đồ tượng Lý -Trần, các công trình nghiên cứu đã cho chúng ta thấy có rất nhiều phù điêu, hình chạm khắc và tượng tròn (gỗ và đá) về đề tài "tiên" ở nhiều di tích khác nhau (chùa Phật Tích, Chương Sơn, Long Ðội, chùa Dâu, chùa Bối, Thái Lạc...) dưới các tên gọi và chú thích (chưa thật sự chính xác) là: "tiên nữ/ Apsara", "nhạc công/ Gandharva", "nữ thần chim/Kinnari"...Rõ ràng đây là kết quả có gốc từ tám loại chúng sanh gọi là "bát bộ chúng" của Phật giáo gồm: 1. Thiên (Ðêva); 2. Long (Naga); 3. Dạ xoa (Yasha); 4. Atula (Asura; phi thiên); 5. Ca lâu la (Garuda: chim thần Kim Sí điểu); 6. Càn - thát bà (Gandharva); 7. Khẩnnala (Kinnara); 8. Ma hầu la già (Mahôraga: đại xà vương). Trong tám loại chúng này có ít ra bốn loại có thể được coi là tiên. Hình minh hoạ:
Bốn loại có thể được coi là tiên gồm:
- Ðêva là thiên, Ðêvi: thiên nữ: tiên nữ. Xét về hình tướng thì đây là các loại tiên nữ trang trí mũ miện, đầu tóc mỹ lệ như vũ công, ca công hầu hạ, tán tụng việc thuyết pháp.
- Atula là loại phi thiên, thường có hình tướng tiên nhân đang bay lượn kèm với các dây lụa dài uốn lượn gọi là "phong đai" như vũ công múa lụa.
- Càn thát bà là nhạc thần, hương thần (thần chỉ sống bằng hương thơm). Ðây là thần Bàlamôn giáo (có đến 6.333 vị); trong kinh Diệu pháp liên hoa của Phật giáo có bốn loại. ở ấn Ðộ, Càn thát bà được hiểu là "diễn viên". Về hình tướng có thuyết cho rằng loại này thân có nhiều lông vũ, nửa ngưòi nửa chim, hình dáng đẹp. Có thuyết chỉ rõ; thân lộ màu da thịt, tay trái cầm sáo trúc, tay phải cầm bảo kiếm.
- Khẩnnala, dịch nghĩa là nghi thần (đầu có sừng nên khi thấy sinh tâm hoài nghi vì không giống người). Loại chúng này có biệt tài ca múa giỏi, chuyên tẩu các bài nhạc nói về đạo pháp. Về hình tướng thường có một cái trống nằm ngang hay hai cái trống đứng trước mặt, tư thế là nhạc công chơi trống.
Trong bốn loại tiên này thì Càn thát bà do có hình tướng người – chim nên dễ được đồng nhất với Âu Cơ (nói như vậy là xét về lý, còn trong thực tế về hình tướng cụ thể đều có khả năng tham chiếu cả Atula và Kanara/Kanari...). Phải chăng đó là cơ sở lịch sử - văn hoá của thời kỳ đạo Phật là quốc giáo mà tác giả Lĩnh Nam chích quái đã dựa vào đó mà "tiên hoá" mẹ Âu Cơ, tức chim đã được biến thành tiên. Ðó là nguyên nhân lịch sử mà cụ thể là sự tích hợp cũ- mới, nội sinh - ngoại sinh để "Lạc Long Quân - Âu Cơ" thành "Cha rồng - mẹ tiên" đầy thiêng liêng và tự hào đối với mỗi con dân Việt.
Mỹ thuật cổ truyền
Việt Nam có 54 dân tộc. Mỗi dân tộc dường như đều có một truyền thống văn hóa riêng. Kho tàng văn hóa truyền thống của Việt Nam thể hiện sự đa dạng muôn hình muôn vẻ của các dân tộc cùng sống trên dải đất này.
Trong kho tàng văn hóa đó phải kể đến sự đóng góp của các tác phẩm mỹ thuật đã và đang có mặt ở khắp mọi miền đất nước. Những sản phẩm đó tồn tại dưới nhiều thể loại khác nhau: điêu khắc, gốm, hội hoạ... bằng nhiều chất liệu khác nhau: đất, đá, đồng, sắt, gỗ, giấy...
Hiện vật còn lưu giữ đến nay cho ta thấy từ xa xưa, người Việt Nam đã sớm có một nền mỹ thuật truyền thống: Các hình chạm trong một hang ở Hoà Bình cách ngày nay khoảng 10.000 năm; chiếc muôi đồng được tìm thấy ở Hải Phòng, lưỡi mác bằng đồng tìm thấy ở Thanh Hóa có từ thế kỷ 4 trước Công nguyên; các hình chạm trên mặt các trống đồng v.v.. đều là những sản phẩm với những đường nét, hình khối hàm chứa những giá trị thẩm mỹ của nghệ thuật cổ truyền Việt Nam.
Cộng đồng các dân tộc Việt đã viết nên những trang sử đẹp chống ngoại xâm và cũng chính những bàn tay đánh giặc, cày cuốc đó lại khéo léo tạo nên những sản phẩm giàu tính thẩm mỹ và cũng rất đặc trưng của dân tộc.
Mỹ thuật cổ truyền Việt là một phạm trù rất rộng, bao gồm nhiều thể loại, sản phẩm lại phong phú, đa dạng và được sáng tạo ở nhiều thời đại khác nhau.
Tranh dân gian
Tranh dân gian gồm hai loại, tranh Tết và tranh thờ. Tranh dân gian có nguồn gốc từ rất xa xưa được giữ gìn, bảo tồn và phát triển qua các giai đoạn lịch sử của đất nước. Tranh dân gian không những là tài sản riêng của các làng tranh mà còn là tài sản chung của cả dân tộc.
Việt Nam với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và nhân hóa các hiện tượng thiên nhiên thành các vị thần nên cùng với tranh Tết, tranh thờ cũng có rất sớm. Cả hai đã trở thành nhu cầu của nếp sống văn hóa, là thành tố của mỹ thuật cổ truyền và hợp thành văn hóa truyền thống của dân tộc.
Do nhu cầu của tục chơi tranh Tết và thờ cúng, tranh dân gian phải có số lượng lớn nên người Việt Nam từ lâu đã biết đến kỹ thuật khắc ván để in. Vào thời Lý (thế kỷ 12) đã có những gia đình chuyên làm nghề khắc ván. Cuối thời Trần đã in được tiền giấy. Đến thời Lê Sơ lại tiếp thu thêm kỹ thuật khắc ván in của Trung Quốc và cải tiến thêm một bước nữa. Cũng từ đây, trong dòng chảy của mỹ thuật truyền thống - dân gian bắt đầu có sự phân hóa để ngày càng phát triển đậm nét.
Trong bối cảnh đó, đến thời Mạc (thế kỷ 16) tranh dân gian phát triển khá mạnh, được cả các tầng lớp quý tộc ở kinh thành Thăng Long sử dụng vào dịp Tết mà bài thơ Tứ thời khuê vịnh của nhà thơ đương thời Hoàng Sơ Khải đã xác nhận sự hiện diện của các loại tranh thờ, tranh gà và tranh Tố nữ:
"Chung Quỳ khéo vẽ nên hình
Bùa đào cấm quỷ, phòng linh ngăn tà
Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm
Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ Dương"
Đến thế kỷ 18 - 19 tranh dân gian Việt Nam đã ổn định và phát triển cao. Bảo tàng Lịch Sử (Hà Nội) còn giữ được những ván khắc từ thời Minh Mạng thứ 4 (tức 1823). Địa bàn làm tranh dàn trải trong cả nước. Dựa theo phong cách nghệ thuật, kỹ thuật in vẽ và nguyên vật liệu làm tranh, có thể quy về một số dòng tranh gọi theo tên những địa danh sản xuất.
Mỗi dòng tranh có một phong cách riêng, song tất cả đều được dựng hình theo kiểu "đơn tuyến bình đồ" dùng nét khoanh lấy các mảng màu và bao lại toàn hình. Với lối dựng hình "thuận tay hay mắt", tranh dân gian không phụ thuộc vào viễn cận một điểm nhìn mà được diễn tả theo lối quan sát di động với nhiều góc độ khác nhau. Thần thánh luôn được vẽ to ở giữa, phía trên, còn người bình thường thì sàn sàn nhau, con vật và cảnh sắc thì tuỳ tương quan mà vẽ to hay nhỏ để bức tranh gây ấn tượng sâu sắc.
Trong giao lưu văn hóa, tranh dân gian Việt Nam vừa phát triển những vốn quý của các thời trước tích tụ lại, vừa tiếp nhận những tinh hoa của các dòng tranh khác để rồi khẳng định những gì thích hợp với dân tộc, làm phong phú hơn bản sắc của mình.
Ngày nay, tranh dân gian đã bị tranh hiện đại lấn át, hầu hết đã thất truyền. Tuy nhiên, có một dòng tranh vẫn còn tồn tại trước những thử thách của thời gian, như tranh Đông Hồ. Dòng tranh này không những có chỗ đứng ở trong nước mà nó đã và đang có mặt ở nhiều nước trên thế giới như Nhật, Pháp, Mỹ...
Tranh Đông Hồ
"Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch, có lề
Có sông tắm mát, có nghề làm tranh"
Đó là câu ca xa xưa của một làng nhỏ nằm ven bờ nam sông Đuống, tỉnh Bắc Ninh, thuộc Kinh Bắc xưa.
Người dân làng Hồ khi nhớ đến câu ca dao ấy, lòng thấy tự hào về nghề tranh của mình đã một thời hưng thịnh, kéo dài từ cuối thế kỷ 17 đến nửa thế kỷ 19. Trải qua bao thời loạn ly, tranh vẫn được duy trì, tồn tại đến ngày nay. Tranh Đông Hồ, từ tranh vẽ đến tranh in thủ công, đều mang một phong cách riêng. Từ các khâu như vẽ mẫu, khắc bản in, sản xuất và chế biến màu rồi đến in vẽ tranh, đều có những khác biệt hợp thành cái độc đáo về kỹ thuật, mỹ thuật của một dòng tranh. Màu in tranh ở đây được chế biến từ nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên: màu trắng từ sò, điệp; đen từ than rơm hay lá tre; hồng từ gỗ vang; đỏ từ son; xanh từ gỉ đồng; lam từ lá chàm; vàng từ hoa hòe, quả dành dành... Kỹ thuật pha màu và in của tranh làng Hồ tạo cho sắc tranh trong sáng, óng xốp.
Về đề tài của tranh khá phong phú, nó phản ánh những sinh hoạt, quan hệ xã hội ở nơi thôn dã và luôn được thay đổi hay bổ sung. Thời phong kiến có tranh cóc, chuột, hái dừa, đánh ghen, khiêng trống, đánh vật... Thời Pháp thuộc có cóc Tây múa kỳ lân, văn minh tiến bộ, phong tục cải lương, nhảy đầm... Đến thời kỳ kháng chiến có Việt Nam độc lập, sản xuất tự túc, bình dân học vụ, rồng lửa Thăng Long, bắt sống giặc lái máy bay, được mùa lúa xuân, lúa ngô khoai sắn, Bác Hồ về thăm làng...
Ngày trước, cứ đến Tết dường như nhà nào ở nông thôn vùng Bắc Bộ cũng có một vài tờ tranh Đông Hồ, nó làm bừng sáng những căn nhà đơn sơ, thấp bé nhưng là tổ ấm của gia đình. Bức tranh ngày tết cùng góp vui và reo lên những tiếng cười trong trẻo trong cuộc sống khốn khó của người dân thôn quê Việt Nam. Tranh Đông Hồ phản ánh đúng tâm tư nguyện vọng và những ước mơ bình dị, gần gũi với cuộc sống đời thường của người dân. Những nghệ nhân vẽ tranh cùng cảnh nghèo khó như bao người dân lao động nghèo khó khác. Do vậy tranh ở đây thật sự đã gây được ấn tượng sâu sắc và sự hâm mộ của họ. Có lẽ vì thế mà tranh được sản xuất, bán ra khá nhiều và rộng khắp từ các chợ làng quê đến thành thị ở mọi miền đất nước. Năm này qua năm khác, sau mỗi mùa gặt hái, người ta lại nhắc nhở nhau:
"Dù ai buôn bán trăm nghề
Mồng sáu tháng chạp nhớ về buôn tranh"
Tranh Hàng Trống
Dòng tranh Hàng Trống phát triển ở các phố Hàng Trống, Hàng Nón (Hà Nội). Cách diễn hình tinh vi, phong phú trong khuôn khổ bức tranh và trong nhiều loại tranh. Khuynh hướng tranh trục cuốn phương Đông được sử dụng mạnh mẽ nhằm tạo không gian có nhiều mảng trống, gợi cảm và thanh cảnh theo thị hiếu của dân thành thị.
Tranh Hàng Trống nét mảnh, tinh, yểu điệu. Do sử dụng được mầu phẩm nên hòa sắc của tranh Hàng Trống rất phong phú, gợi được khối của không gian. Mầu thường là lam - hồng, có thêm lục - đỏ, da cam - vàng. Mầu phẩm tô bằng tay sau khi đã in các nét đen, pha ít hay nhiều nước mà có màu đậm nhạt. Tranh chỉ tạo khối ở nhân vật, không có khái niệm về không gian xa, gần.
Các tác phẩm tranh dân gian nổi tiếng như: Lý ngư vọng nguyệt, Thất đồng, Ngũ hổ, Tố nữ; bộ tranh truyện: Hoa Tiêu, Kiều... bộ tranh về cảnh dạy học, cảnh nhà nông hay các kiểu khác: canh, tiều, ngư, mục (nhà nông, tiều phu, đánh cá, chăn trâu); các tranh thờ: Tam toà Thánh Mẫu, Phật, Tứ phủ, Ngọc hoàng... làm cho dòng tranh có thể sánh ngang với bất cứ dòng tranh đồ hoạ danh tiếng nào.
Ước vọng hạnh phúc và dùng nhiều mô típ tượng trưng, màu sắc tươi sáng, nội dung vui vẻ, ngộ nghĩnh, đơn giản hóa các khái niệm triết học là tinh thần chính của dòng đồ hoạ trên, tranh thường được bán vào các dịp tết âm lịch. Hành nghề có tính phường thợ, cha truyền con nối.
Tranh Kim Hoàng (xã Vân canh, Hoài Đức - Hà Tây)
Bên cạnh hai dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống, dòng tranh Kim Hoàng phát triển từ thế kỉ 18 đến thế kỉ 19. Sự hợp nhất hai làng Kim Bảng và Hoàng Bảng thành Kim Hoàng tiến tới xây dựng đình chung "Trưởng bảng hội đình" vào ngày 3-2 năm Chính Hòa thứ 22 (1701), cũng có lẽ chuẩn bị cho bắt đầu của nghề in tranh trong làng. Hàng năm, người Kim Hoàng làm tranh từ rằm tháng một (tháng 11 âm lịch) đến giáp tết, thoạt đầu thì cúng tổ nghề. Các ván in do một chủ phường có tài năng vẽ và khắc. Sau ngày giỗ tổ mới phát cho các gia đình. Trong quá trình in họ trao đổi ván cho nhau. Hết mùa tranh họ lại giao ván cho các chủ phường khác cất giữ.
Tranh Kim Hoàng cũng đủ loại tranh thờ cúng, chúc tụng như một số dòng tranh khác cùng thời (Đông Hồ, Hàng Trống). Nhưng tranh Kim Hoàng lại kết hợp được nhiều ưu điểm của hai dòng tranh đó. Tranh Kim Hoàng có nét khắc thanh mảnh, tỷ mỉ hơn tranh Đông Hồ; màu sắc tươi như tranh Hàng Trống. Về màu, tranh Kim Hoàng dùng mực tàu, trắng là thạch cao, phấn; chàm, xanh chàm từ mực tàu hoà với nước chàm và các màu hóa học. Giấy in không quét điệp như tranh Đông Hồ, cũng không dùng giấy xuyến như tranh Hàng Trống mà in trên giấy màu đỏ, giấy hồng điều, giấy tàu vàng. Tranh lợn bột in hình con lợn mình đen, viền trắng cách điệu rất ngộ nghĩnh giống như những con lợn đất bán ở chợ, trên nền giấy đỏ tạo một vẻ đẹp riêng gây ấn tượng mạnh mẽ của tranh Kim Hoàng.
Tương truyền, dòng họ Nguyễn Sĩ là dòng họ làm tranh sơ khởi người Thanh Hoá theo mẹ ra Thăng Long rồi lập nghiệp ở đây. Trận lụt năm 1915 làng mạc ngập trắng từ Phùng đến Cầu Giấy, cuốn trôi nhiều ván in tranh của làng. Tranh Kim Hoàng dần bị thất truyền, đến năm 1945 thì hoàn toàn không còn sản xuất nữa. Ngày nay, một vài ván in của dòng tranh này còn được lưu giữ ở bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam.
Tranh làng Sình
Làng Sình có tên chữ là Lại Ân thuộc tổng Hoài Tài, huyện Tư Vang, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa, Phú Vang. Làng nằm ở ven bờ Nam hạ lưu sông Hương, cách Huế không xa (bên kia sông Bảo Vĩnh). Làng Sình nổi tiếng về hội vật mùng mười tháng giêng. Nhưng làng Sình còn nổi tiếng về một nghề làm tranh thờ in ván khắc. Trước kia hầu hết tranh thờ in ván bày bán ở chợ vùng này là do dân làng Sình làm, nên gọi là "tranh Sình".
Thời hưng thịnh của tranh Sình, những người trong các gia đình ở đây đều biết in và tô màu cho tranh. Tranh làm ra bán buôn ngay tại nhà hoặc bán cho hàng mã ở chợ, có khi được đặt từ trước. Giấy in tranh là giấy mộc, màu trước kia lấy màu từ tự nhiên (thực vật, kim loại, sò điệp), sau là phẩm hóa học gồm các màu cơ bản đỏ, vàng, xanh và đen. Bản khắc từ gỗ mít. Tranh ở đây in lối ngửa ván rồi dùng tay vuốt giấy cho phẳng, in lấy một nét và mảng đen, sau dựa vào đấy mà tô màu. Một số tranh in đen xong là hoàn chỉnh.
Tranh Sình chủ yếu là tranh thờ, tranh cúng lễ phục vụ tín ngưỡng dân gian. Tranh làng Sình có khoảng 50 đề tài khác nhau, phản ánh tín ngưỡng cổ sơ, tư tưởng của người Việt cổ trước một thiên nhiên hoang sơ, thần bí. Cuộc sống của con người bị chi phối bởi nhiều tai hoạ nên họ cần đến sự che chở của thần linh. Người ta cúng tranh để cầu mong người yên, vật thịnh, phụ nữ sinh nở được "mẹ tròn con vuông", trẻ nhỏ mau lớn, người ốm chóng khỏi...
Bên cạnh ý nghĩa thờ cúng, tranh Sình còn khắc hoạ bằng hình ảnh sinh động những sinh hoạt văn hóa, xã hội, lao động. Nhóm tranh muông thú rất gần gũi với mọi nhà (lợn, ngựa, voi...), các đồ vật quen thuộc (chậu, hoa, thuyền bè...). Tranh Sình đơn giản nhưng đẹp một cách bình dị, tự nhiên. Một trong những đề tài khá phổ biến và đẹp là bộ tranh tố nữ, mỗi bức vẽ một cô đứng biểu diễn một loại nhạc cụ. Trang phục của các cô đều giống nhau là áo "mã tiên", áo trắng dài mặc trong, áo cánh màu bận ngoài, mầu áo có thể thay đổi khi tô màu sao cho vui.
Tranh làng Sình nặng về tính chất thờ cúng, chưa đáp ứng được yêu cầu thưởng ngoạn của dân gian, chưa phản ánh được niềm lạc quan, yêu đời như tranh tết, tranh sinh hoạt Đông Hồ. Tranh làng Sình đã bị thất truyền từ lâu, nhưng dẫu sao thì nó đã có một thời gần gũi với bao gia đình ở miền Trung.
Kiến trúc Việt Nam
Nền kiến trúc Việt Nam được hình thành từ thời vua Hùng dựng nước.
Trước thế kỷ thứ 10, làng xóm xuất hiện vào thời kỳ này. Người Việt bấy giờ "bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói" (Lĩnh Nam chích quái). Trên các trống đồng có thể thấy hai loại hình nhà sàn chủ yếu: Loại hình thuyền và loại hình mai rùa.
Địa hình nhiều sông hồ, đầm lầy, khí hậu nhiệt đới ẩm, vật liệu xây dựng chủ yếu là tre gỗ đã đưa đến hình thức ở nhà sàn trên cọc thấp. Lọai nhà sàn này tồn tại đến ngày nay ở các vùng núi và vùng trung du; cuối thế kỷ trước tồn tại cả ở vùng đồng bằng.
Vào thế kỷ thứ 3 trước C.N, Thục Phán xây dựng thành Cổ Loa gồm nhiều vòng thành đắp đất theo hình xoắn ốc, phù hợp với địa hình, sông hồ.
Kiến trúc thời Bắc thuộc (thế kỷ 2 tr C.N - thế kỷ 9) bao gồm các loại hình thành quách, mộ táng, dinh lũy, nhà ở dân gian. Khi Phật giáo vào Việt Nam có thêm kiến trúc chùa.
Đời nhà Lý
Nhà Lý, vào thế kỷ 11, trong việc xây dựng Nhà nước phong kiến thống nhất của dân tộc, đã mở ra một cục diện mới cho sự phát triển kiến trúc.
Kiến trúc thời Lý (thế kỷ 11-12) nhìn chung có 5 loại hình kiến trúc chính thống là: thành quách, cung điện, lâu đài, chùa tháp và đền thờ bên cạnh kiến trúc nhà ở dân gian.
,br>Thành Thăng Long có một quần thể cung điện, nhiều điện gác cao 3 - 4 tầng. Văn hoá Thăng Long bấy giờ là văn hoá chùa - tháp.
Kiến trúc thời Lý có những đặc điểm cơ bản: tính quần thể cao; hình thức kiến trúc và chi tiết kiến trúc giàu sức biểu hiện (thể hiện ở các bộ phận kiến trúc mái, bộ cửa, bậc cấp, lan can và các tượng tròn, các hình thức hoa văn trang trí gạch, ngói); phong cách nhẹ nhàng, khiêm tốn, phù hợp với khí hậu, tập quán Việt Nam. Phường phố, chợ quán, nhà đất và nhà sàn trong mảng kiến trúc dân gian phát triển song song với kiến trúc cung đình.
Đời nhà Trần
Với nhà Trần, kiến trúc chủ yếu là cung điện, chùa - tháp, nhà ở, một số đền và thành quách. Một số điểm nổi bật như tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc), chùa và tháp Phổ Minh (Nam Định), chùa Thái Lạc (Hưng Yên).
Cách bố cục, cấu trúc chùa Phổ Minh có thể làm hình mẫu cho một loại hình kiến trúc biến ở thời Trần cũng như nhiều thế kỷ sau:
Mặt bằng kiểu chữ "tam" với ba dãy nhà chính: Tiền Đường, Thiêu Hương, Thượng Điện. Mỗi nhà kết cấu khung bốn hàng cột kiểu "tứ trụ", rất thông dụng và chắc chắn. Sân trong, vườn hoa, cây cảnh... góp thêm tiếng nói quan trọng vào ngôn ngữ kiến trúc truyền thống, thể hiện quan niệm vũ trụ Á Đông.
Kiến trúc cung điện bấy giờ thường có "các" (gác) và hệ thống hành lang nối các nhà tạo nên một hệ thống không gian mở cần thiết cho sinh hoạt của con người xứ nóng. Phố xá lúc bấy giờ tuy đông vui nhưng nhà cửa vẫn dùng vật liệu tre gỗ là chính.
Đời nhà Hồ chỉ có 7 năm nhưng để lại một công trình kiến trúc lớn: toà thành Tây Đô ở Thanh Hoá, nay vẫn còn lại các cổng khá đồ sộ.
Đời nhà Lê
Đầu thể kỷ 15, thời nhà Lê trị vì, kiến trúc chính thống ghi nhận có hai loại hình phát triển chính là cung đình và lăng mộ.
Thế kỷ 16 và 17, kiến trúc tôn giáo và kiến trúc thế tục như đền, chùa, đình, có những thành tựu mới. Chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) rất đáng chú ý ở kiến trúc chùa, kỹ thuật xây dựng tháp và trang trí tượng.
Khi chế độ phong kiến suy yếu, nghệ thuật dân gian vẫn in đậm nét trong kiến trúc, với những dường nét chạm trổ miêu tả cảnh chèo đò, săn bắn, đi cày, đốn gỗ, đánh ghen, đấu vật v.v..
Vào thế kỷ 18, nghệ thuật xây dựng chùa tháp và đình làng tiếp tục được đẩy mạnh lên một mức cao mới. Hai viên ngọc quý của kiến trúc bấy giờ là đình Đình Bảng và chùa Tây Phương.
Đời nhà Nguyễn
Đầu thế kỷ 19, hoạt động xây dựng ở Bắc Hà có lắng xuống do Kinh đô được nhà Nguyễn chuyển vào Huế. Ở Thăng Long, chủ yếu xây dựng lại thành quách, một số công trình văn hoá như Khuê Văn Các, đền Ngọc Sơn sự phát triển một số khu dân cư mới ở Hà Nội.
Trung tâm xây dựng mạnh mẽ lúc bấy giờ là Huế, bao gồm các loại hình chủ yếu là thành quách, cung điện và lăng tẩm. Nền văn hoá Việt Nam ở Huế đã phong phú thêm với kiến trúc nhà vườn, khác hẳn với kiến trúc nhà ống ở Hà Nội.
Kiến trúc Huế được coi là tổng kết những giá trị kiến trúc truyền thống về các mặt công năng mặt phẳng, kết cấu, quy hoạch thành quách và đô thị, trang trí nội thất, cấu trúc phong cảnh.
Kiến trúc cận đại và hiện đại
Cuối thế kỷ 19, kiến trúc đã thể hiện sự du nhập phong cách xây dựng và quy hoạch đô thị châu Âu và sự giao lưu văn hoá Pháp và văn hoá Á Đông.
Từ sau ngày đất nước thống nhất (1975) kiến trúc Việt Nam phát triển khá mạnh mẽ. Đã ra đời nhiều đô thị, khu công nghiệp, khu dân cư, làng xóm mới. Có những công trình kiến trúc lớn và có giá trị cao về nghệ thuật.
Nói chung kiến trúc ngày nay bao gồm bốn mảng lớn: thiết kế nội thất, thiết kế kiến trúc, thiết kế quy hoạch đô thị, thiết kế môi trường và quy hoạch vùng. Hiện nay những vấn đề về phát triển tự phát đô thị, bảo vệ di tích kiến trúc trong khung cảnh cơ chế thị trường, chiến lược xây dựng nhà ở đang là những vấn đề cấp bách đòi hỏi phải giải quyết.
Điêu khắc cổ Việt Nam
Trong di sản nghệ thuật truyền thống, điêu khắc có một lịch sử phát triển liên tục và cô đúc hình ảnh con người Việt Nam từng miền, từng thời, dù dưới dạng thần linh hay con người thế tục.
Dưới bầu trời rạng rỡ của hai nền văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa lân cận, đôi khi người ta quên mất di sản này, và nếu có biết thì coi như những ảnh hưởng phái sinh của tinh thần Ấn Độ - Trung Hoa, và không có gì đồ sộ so ngay với cả người láng giềng Khmer. Tính chất cát cứ từng xuất hiện trong lịch sử của một đất nước hình thành lâu dài, sự đa dân tộc, bên cạnh khối dân tộc Việt chiếm đại đa số khiến cho hình ảnh của nền điêu khắc rất đa dạng có thể thấy các bộ phận điêu khắc như sau:
1. Điêu khắc vương quốc Phù Nam và Chân Lạp ở Nam Bộ;
2. Điêu khắc Champa ở Trung Nam Bộ;
3. Điêu khắc Đại Việt ở Bắc Bộ;
4. Điêu khắc nhà mồ của thổ dân Tây Nguyên.
Những ảnh hưởng của Ấn Độ giáo chủ yếu ở Trung và Nam Bộ, không vượt quá đèo ngang và chi phối sâu sắc hệ thần trong điêu khắc Phù Nam và Champa. Những ảnh hưởng của tam giáo Nho, Lão và Phật giáo Đại thừa theo dòng Trung Hoa ít tới miền Nam. Tuy vậy, giao lưu ngôn ngữ nghệ thuật vẫn diễn ra, ít nhất thấy rõ trong thời kỳ Lý - Trần với sự cộng tác của các nghệ nhân Champa. Đời sống đóng kín của nông thôn Bắc Bộ đã di dưỡng một tinh thần nghệ thuật nhân văn - tôn giáo đặc sắc mà vẻ đẹp của điêu khắc thể hiện ở tính chân dung nông dân của nó. Dù khói lửa chiến tranh liên miên, mỗi làng vẫn bảo tồn một cụm đình - đền - chùa với nhiều tượng Phật và các phù điêu.
Điêu khắc thời Tiền sử: Thời Tiền sử Việt Nam được tính từ nền văn hoá Núi Đọ cách đây ba mươi vạn năm đến nền văn hoá Đông Sơn cách đây 2.500 năm. Thời kỳ này chắc hẳn mọi hoạt động văn hoá chưa phân chia rõ ràng, huống hồ là nghệ thuật. Không thể có một nền điêu khắc tiền sử, mà chỉ có những biểu hiện có tính điêu khắc mà thôi. Đáng kể nhất là những hình khắc trên hang Đồng Nội (Lạc Thuỷ, Hoà Bình) cách đây 10.000 năm, khắc ba mặt người và một mặt thú một cách sơ lược, trên đầu có cắm sừng hay lông chim. Người Hoà Bình đã nhìn thấy gương mặt mình dù chưa rõ ràng nhưng đã khôn ngoan đội lốt thú khi săn bắn một cách khái quát. Tượng gốm và đá nhỏ vài cm xuất hiện trong các di chỉ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun chỉ như những hình thể trang trí gắn với các trang sức và công cụ lao động. Đến nền văn hoá Đông Sơn nổi tiếng về các trống đồng, điêu khắc nhỏ gắn với đồ tế khí, gia dụng đẹp một cách tinh tế trong thẩm mỹ mang tính bạo lực. Đó là các tượng người biến hình thành cán dao găm, các tượng voi, cóc, hươu, rùa trên trống, thạp, ấm bằng đồng. Đặc biệt là bốn cặp tượng nam nữ giao phối trên nắp thạp đồng Đào Thịnh với một nhãn quan phồn thực. Thờ thần mặt trời, tế lễ cầu mùa hay tang ma là âm hưởng chủ đạo qua các hình khắc trống đồng Đông Sơn, còn điêu khắc đóng vai trò nhấn mạnh tính hình khối rõ ràng của nhạc khí, tế khí và đồ dùng. Điêu khắc Tiền Sử hoàn toàn thuần Việt trước khi các cuộc xâm lăng từ phương Bắc tràn xuống.
Điêu khắc nhà mồ Tây Nguyên: Năm tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đăk Nông, Lâm Đồng chiếm trọn cao nguyên phía tây Nam Trung Bộ, nếu tính cao nguyên như là sự lan rộng của dẫy núi thì địa bàn Tây Nguyên còn rộng hơn. Nơi đây không rõ lý do gì bảo lưu một nền văn hoá rực rỡ của các dân tộc có nguồn gốc từ thổ dân Đông Nam Á và Đa Đảo. Hệ ngữ Môn - Khmer và Malayo - Polinesia đóng vai trò chính trong ngôn ngữ Tây Nguyên cũng như tập tục tang ma trọng thể thấy phổ biến ở dân hoang đảo quanh xích đạo địa cầu. Tiêu biểu là lễ bỏ mả và làm nhà mồ của người Gia Rai và Ba Na. Trong đó, phần tạc tượng rào quanh nhà mồ rất quan trọng. Những tượng nam - nữ giao hợp, tượng bà chửa, tượng người ngồi khóc, tượng thú vật voi và chim cũng được đẽo phạt từ tâm linh sâu thẳm đối với thế giới bên kia, nơi mà các linh hồn sẽ trở về với tổ tiên và ông bà. Con thuyền tang lễ được gắn vào nóc nhà mồ. Cột Klao, cột Kút dẫn linh hồn về trời được dựng lên trong tiếng nhạc cồng, chiêng trầm hùng và ai oán.
Điêu khắc Champa: Vương quốc Champa hình thành ở Nam Trung Bộ, chia thành một số khu vực tự nhiên ứng với các dải đồng bằng ven biển là Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Bình Định), Kauthara (Nha Trang) và Paduranaga (Phan Rang). Sự liên kết giữa hai thị tộc Can và Dừa dẫn đến một Nhà nước phong kiến theo Ấn Độ giáo đầy mâu thuẫn và hiếu chiến. Người Champa ẩn chứa trong mình năng lực sáng tạo dồi dào, cũng mạnh mẽ như khát vọng chiến tranh của họ. Từ thế kỷ 2 là thời sơ khai của vương quốc mà người Trung Hoa gọi là Lâm Ấp. Nhưng phải đợi đến thế kỷ 7 - 8 nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Champa mới trở nên rực rỡ cùng phong trào Phật giáo hoá và Ấn Độ giáo lan rộng khắp Đông Nam Á. Tháp Champa xây bằng gạch không vữa, thường có một cổng, một tháp phụ có mái hình con thuyền, một tháp chính ở trung tâm khối vuốt lên cao nở ra ở nhiều góc và các múi vòm. Trên đó thường gắn các phù điêu chạm khắc hình thần Siva hay các tiên nữ Apsara. Cửa chính quay về phía Nam hoặc Đông Nam. Trong lòng tháp đặt biểu tượng thờ Linga và Yoni (dương vật và âm vật). Điêu khắc tượng tròn được bố trí hài hoà với xung quanh kiến trúc và tuỳ theo chức năng tháp mà đục đẽo các tượng thần. Người ta thường chia nghệ thuật Champa làm sáu giai đoạn chính: 1. Mỹ Sơn E1 (nửa đầu thế kỷ 8); 2. Hoà Lai (nửa đầu thế kỷ 9); 3. Đồng Dương (cuối thế kỷ 9); 4. Trà Kiệu (cuối thế kỷ 9 đầu thế kỷ 10); 5. Tháp Mẫm (thế kỷ 12 - 13); 6. Poklaung Gialai (cuối thế kỷ 13, 14 đến 16). Năm 1470 Lê Thánh Tông dứt điểm bình định phương Nam, sau đó là công cuộc Nam tiến của các Chúa Nguyễn, nền nghệ thuật Champa và Phù Nam - Chân Lạp chỉ còn lại các di sản đặc sắc với một quá khứ huy hoàng.
Điêu khắc thời Lý (1010 - 1225): Đại Việt trở thành quốc gia độc lập, hùng cường sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi và dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Phật giáo trở thành quốc đạo phát triển tới mức, như sử gia Lê Văn Hưu nói: "nhân dân quá nửa là sư sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa chiền". Các trung tâm Phật giáo ở Quảng Ninh, Hà Nam Ninh và đặc biệt ở Bắc Ninh, quê hương Nhà Lý được xây dựng đồ sộ theo kiểu thức kiến trúc Đông Nam Á, kéo theo một nền điêu khắc Phật giáo. Các chùa thời Lý thường có 4 cấp, ăn sâu và cao dần theo triền núi, hoặc có mặt bằng hình vuông, hình tròn, trung tâm là tháp cao có tượng Phật đặt trong. Tượng A Di Đà chùa Phật Tích làm năm 1057 là tác phẩm đầu tiên của thế giới Phật giáo vĩnh hằng ở Bắc Bộ. Các tượng Kim Cương chùa Long Đọi, tượng đầu người mình chim, chạm khắc chùa Bà Tấm, chùa Chương Sơn đều thống nhất một tinh thần viên mãn, cá tính bị tan biến sau lớp đăng ten trang trí hoa văn dầy đặc trên bề mặt. Cột biểu chùa Dạm (1086) vay mượn từ biểu tượng Linga - Yoni Champa, là tác phẩm đồ sộ cao 5,4m có tính hoành tráng. Tinh thần Thiền Nhà Lý đã chi phối tính ôn hoà và mạnh mẽ bên trong của các tác phẩm điêu khắc vừa khái quát về tổng thể, kỹ lưỡng về chi tiết ở các công trình kiến trúc kỳ vỹ mà từ đó các bậc Thiền sư có thể "Hú lên một tiếng lạnh cả trời" (Đạo Hạnh).
Điêu khắc thời Trần (1225 - 1400): Nhà Trần thay thế nhà Lý suy tàn trong sự phát triển đi lên của phong kiến Việt Nam. Ba lần chống quân Ngyên - Mông thắng lợi, bảo tồn giang sơn đã tạo nên một hào khí oai hùng cho dân tộc và thấm đẫm trong văn học nghệ thuật; mặt khác chiến tranh nhiều lần tàn phá đất nước, hoạt động nghệ thuật bị hạn chế, cuối cùng chế độ điền trang thái ấp cũng tan vỡ trong cuộc cải cách của Hồ Quý Ly vào cuối thế kỷ 14. Dù chùa chiền không được đồ sộ nhưng đạo Phật vẫn thịnh hành. Điêu khắc Phật giáo hiện chưa tìm được pho tượng nào nhưng còn lại rất nhiều bệ tượng đá hoa sen hình hộp trên đặt tượng Tam Thế (Quá khứ - Hiện tại - Vị lai) ở các chùa Thầy, chùa Bối Khê, chùa Dương Liễu. Chạm khắc gỗ trang trí kiến trúc thấy ở chùa Phổ Minh (Nam Định), chùa Thái Lạc (Hưng Yên) với các đề tài "Rồng chầu lá đề", "Tiên nữ dâng hoa", "Tiên nữ tấu nhạc", "Tiên nữ dâng hương". Phong cách hài hoà Lý đã biến đổi, phong cách Trần mạnh mẽ, khái quát và quan tâm đến tính biến động của cấu trúc tổng thể hơn là hình mô tả. Trong các lăng mộ đời Trần, điêu khắc đá chủ yếu là tượng người, tượng thú chầu và làm thần canh giữ cho thế giới vĩnh viễn của ông vua có vẻ đẹp trầm mặc và sinh động. Tượng hổ ở lăng Trần Thủ Độ, tượng trâu và chó ở lăng Trần Hiển Tông, tượng quan hầu ở lăng Trần Anh Tông là lối điêu khắc lăng mộ đầu tiên ở Việt Nam, mà cách tạo hình luôn gắn với sự xác định trong không gian quần thể kiến trúc lộ thiên.
Điêu khắc thời Lê Sơ (1428 - 1527): Trong trăm năm của triều đại Lê Sơ, Phật giáo đã bị đẩy lùi về các làng xã, Nho giáo lên ngôi và kinh tế nông nghiệp với quan hệ địa chủ - nông dân cũng phát đạt. Ngoài ba pho tượng đá chùa Ngọc Khám (Bắc Ninh) đến nay hình ảnh điêu khắc Phật giáo thời Lê Sơ rất mờ nhạt. Thay vào đó là nền điêu khắc lăng mộ của các vua Lê ở Lam Sơn (Thanh Hoá). Tám lăng vua Lê và hai bà Hoàng hậu đều theo hình thức của lăng vua Lê Thái Tổ làm năm 1433, mặt bằng hình vuông, chính giữa là đường thần đạo dẫn đến mộ phần ở đáy lăng, hai bên có hai dãy tượng chầu gồm quan hầu, lân, tê giác, ngựa, hổ. Bên ngoài lăng là nhà bia. Các lăng khác đều tương tự, tuy các con vật chầu có chút ít thay đổi. Sau 20 năm chiến tranh với nhà Minh (1407 - 1427), đất nước trở nên hoang tàn, sản vật bị vơ vét, sách vở bị đốt, đền chùa bị phá, thợ giỏi bị đưa về Tàu. Vua Lê đành phải dùng những nông dân lân cận tạc tượng, xây lăng. Tính thô mộc, giản dị, sự cần kiệm của một chính thể mới lên đã dẫn đến một nền điêu khắc đơn điệu, nghèo nàn, dù con mắt kiến trúc tổng thể khá đặc sắc.
Điêu khắc thời Lê - Trịnh - Tây Sơn: Nhà Mạc thay thế Nhà Lê Sơ 1528 đến 1598. Nông thôn Việt Nam tạm yên ổn và phát triển một phong cách điêu khắc đình làng, từ chối tính tôn giáo và phong kiến trước đó. Nội chiến bắt đầu giữa Nhà Mạc với các quan lại họ Trịnh và Nguyễn ủng hộ con cháu nhà Lê, còn gọi là chiến tranh Nam - Bắc triều.
Nhà Mạc thất bại. Thế kỷ 17 họ Trịnh nắm binh quyền ở Bắc Bộ chi phối vua Lê. Họ Nguyễn cát cứ Nam Bộ. Chiến tranh Trịnh - Nguyễn xảy ra tới bảy lần trong suốt thế kỷ 17. Nhân tâm náo loạn. Phật giáo phục hưng như một cứu cánh tinh thần. Thế kỷ 17 - 18 cũng là giai đoạn phát đạt nhất của văn hoá nghệ thuật. Điêu khắc đạt số lượng và loại hình đáng kể chi phối toàn bộ tinh thần thẩm mỹ người Việt. Có các bộ phận sau: điêu khắc Phật giáo trong các chùa làng, điêu khắc lăng mộ của vua quan Lê - Trịnh, điêu khắc trong các đền thờ với tín ngưỡng bản địa. Tượng Phật là Quan Âm "nghìn mắt nghìn tay" chùa Hạ (Vĩnh Yên), cao 3,7m; 42 tay là tác phẩm đồ sộ của thế kỷ 16. Tượng Phật Bà Quan Âm "nghìn mắt nghìn tay" chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) cao 3,7m; 42 tay lớn; 952 tay nhỏ kết thành quầng mắt và ánh sáng rực rỡ tiêu biểu cho nghệ thuật thế kỷ 17. Kết thúc thế kỷ 18 là nhóm điêu khắc các vị tổ chùa Tây Phương được làm năm 1794 thời Tây Sơn. Điêu khắc đình làng như các đình Phù Lão, Chu Quyến, Thổ Tang, Liên Hiệp, Hương Lộc... mang đến một nguồn sinh khí mới với nét chạm tự do, cấu trúc đồ sộ như nghệ thuật Baroque. Cá tính và phong cách cá nhân chìm lẫn trong các hình tượng Thần Phật và được dung dưỡng bởi đời sống làng xã vừa khép kín vừa đa dạng như những tế bào gộp nên nền văn hoá nông nghiệp Việt Nam.
Điêu khắc thời Nguyễn (1802 - 1945): Nhà Nguyễn rời đô vào Huế, xây dựng kinh thành Huế và quần thể lăng mộ cho các bậc đế vương ở phía tây kinh thành, điêu khắc lăng mộ phong kiến Huế nghèo nàn về ngôn ngữ và cứng nhắc về quy phạm. Các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Khải Định tuy khác nhau về kiến trúc nhưng tương đối thống nhất về điêu khắc. Tượng quan hầu, lính hầu, voi và ngựa nghiêm trang hai bên thần đạo, kích thước gần nguyên mẫu nhưng rất thiếu sinh khí. Ở Bắc Bộ, điêu khắc Phật giáo tiếp tục phát triển với một tinh thần chung của xã hội phong kiến cuối mùa. Tượng thì to ra, nhưng vẻ sinh động giảm thiểu. Tác phẩm Quan Âm 112 tay chùa Tây Phương, tượng Phật chùa Bà Đá, chùa Hồng Phúc là những ánh sáng loé lên cuối cùng khi một thời đại mới bắt đầu. Năm 1925, trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ra đời. Mỹ thuật Việt Nam có bước ngoặt mới, hội hoạ với các nghệ sỹ có tên tuổi bắt đầu thay thế địa vị độc tôn của nghệ thuật điêu khắc cổ.
Trên đây là những nét khái lược trình bày một cách cô đọng đặc tính điêu khắc từng thời đại. Bên cạnh mảng điêu khắc tập trung ở chốn đình chung, chúng ta còn kho tàng khổng lồ các tác phẩm điêu khắc dân gian có mặt ở khắp đó đây trên đất nước. Đó là sản phẩm điêu khắc của những người thợ trong kiến trúc nhà cửa, vật dụng, đồ thờ, công cụ...
Kiến trúc Hà Nội
Nhiều du khách lần đầu đến Hà Nội đã bị quyến rũ bởi vẻ đẹp của thủ đô, một vẻ đẹp tạo nên bởi dáng vóc nhỏ nhắn, hiền hòa, cổ kính của kiến trúc kết hợp hài hoà với mầu xanh của cây cối và hồ nước. Kiến trúc của Hà Nội mang đậm dấu ấn của lịch sử dài lâu, chùa chiền, đền miếu có khắp nơi trên đất Hà Nội. Không khí thanh tịnh được tạo ra chính bởi kiến trúc đơn sơ, giản dị, gần gũi với con người. Về mặt kiến trúc, Hà Nội có thể chia thành các khu vực: khu phố cổ, khu thành cổ, khu phố cũ, các khu mới qui hoạch.
KHU PHỐ CỔ
Theo các nguồn sử liệu khác nhau thì khu phố cổ của Hà Nội ngày nay là nhân lõi của kinh đô Thăng Long từ khi mới thành lập, tức là cũng đã có tới gần ngàn năm tuổi.
Nói về địa giới không gian khu phố cổ thì có thể coi đó là một hình tam giác cân có đỉnh là phố Hàng Than, cạnh phía đông là đê sông Hồng, cạnh phía tây là Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn đáy là trục Hàng Bông-Hàng Gai-Cầu Gỗ. Tại khu phố này cho đến khi người Pháp đến, đều chung một dáng dấp, các phố chi chít dọc ngang kiểu bàn cờ, phần lớn mang tên gọi của mặt hàng sản xuất kinh doanh tại những nơi đó: Hàng Ðường, Hàng Bạc, Hàng Bồ,...
Tất cả các ngôi nhà hai bên đường đều theo kiểu "nhà ống". Nhà như một cái ống, bề ngang hẹp, chiều dài sâu có khi thông ra một ngõ khác, phố khác. Bố cục cũng tương tự như sau: gian ngoài là chỗ bán hàng hoặc làm hàng. Tiếp đó là khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng. Trên sân có bể cạn (trong có hòn non bộ, có cá vàng), quanh sân là cây cảnh, là giàn hoa. Gian nhà trong mới là nơi ăn ở và nối vào đó là khu phụ. Ða số là nhà một tầng lợp bằng những viên ngói nhỏ nhắn, với nét đặc trưng là hai bức tường hồi vượt lên khỏi mái, xây giật cấp như những bậc thang và đầu nóc là hai trụ.
Cũng có một số nhà xây thêm tầng gác nhưng thấp và không mấy khi trổ cửa sổ, nếu có thì rất nhỏ, vì các triều xưa cấm dân không được nhìn mặt vua từ trên cao xuống, khi vua ngự giá đi trên đường. Bên cạnh các nhà ống phải kể đến đình chùa, đền miếu rải rác trong nhiều đường phố. Những công trình này là nơi thờ của các làng thôn phường cũ, ngoài ra các công trình đó còn phản ánh gốc gác của cư dân kinh thành mà một bộ phận đáng kể là từ nhiều nơi khác di cư về đây làm ăn ...Mặt khác sự tồn tại của các đình miếu này còn là bằng chứng của tâm linh người Hà Nội cũ; bên cạnh sự hoà đồng với tự nhiên và cộng đồng xã hội, người Hà Nội còn luôn tìm cách hoà đồng với thế giới tâm linh, vì cùng với một không gian đô thị vật chất, vẫn tồn tại một không gian đô thị mang mầu sắc huyền thoại, thiêng liêng, ở đó có thể giao hoà cùng với quá khứ chứa chất sức mạnh tiềm ẩn.
Khu phố cổ Hà Nội với những ngôi nhà ống nhỏ nhắn xinh xắn , những con đường ấm áp người đi, những đền chùa mái cong mềm mại, lại còn cả những không gian, cây xanh mượt mà và ngọt ngào hương... tất cả đã làm nên một vẻ đẹp mà chỉ Hà Nội mới có.
KHU PHỐ CŨ
Cuối thế kỷ 19, từ năm 1883, người Pháp chiếm Hà Nội. Năm 1886 đã có một qui hoạch cho một thành phố Hà Nội mới. Ban đầu tập trung cải tạo khu quanh Hồ Gươm. Trên sát mái nhà số 3 Hàng Khay, nay vẫn mang dòng chữ 1886 là năm xây dựng. Sau đó là việc lấp hồ ao, lấp cả sông Tô Lịch và rồi phá toà thành cổ (1894-1896) và toà luỹ đất. Các phố cổ được uốn lại cho thẳng hàng và thêm các công trình hạ tầng. Tại đây một số nhà cổ được xây lại kiên cố hơn vẫn theo kiến trúc cổ. Một số được xây theo kiểu "Tây" một hai hoặc ba tầng, chịu ảnh hưởng của vật liệu xây dựng mới và hình thức trang trí châu Âu.
Lần lượt xuất hiện các khu phố tây, một ở quanh thành cũ và một ở phía nam Hồ Gươm, cạnh đó là khu nhượng địa đã quy hoạch từ ngày đầu Pháp chiếm đóng. Ba khu này quen gọi là "khu phố cũ".
Khu nhượng địa hình chữ nhật mà hai cạnh dài là đường Bạch Ðằng và phố Lê Thánh Tông-Trần Thánh Tông, hai cạnh ngang là hai đoạn đầu phố Tràng Tiền và phố Nguyễn Huy Tự. Ðây nguyên là đồn thuỷ quân của tỉnh Hà Nội cổ, tháng 8/1875 bị buộc phải nhượng hẳn cho quân đội Pháp xây doanh trại, dinh thự và bệnh viện. Ðây là công trình kiến trúc kiểu "chính thống", mái lợp đá ngói đen, mặt có hành lang chạy bốn xung quanh, nhà cuốn hình cung. Dinh thự tổng tham mưu trưởng quân Pháp (nay là nhà khách của Bộ Quốc phòng) - 1874-1877. Bệnh viện Lanessan (nay là Quân y viện 108 và bệnh viện Hữu nghị) được khánh thành năm 1893.
Khu thành cũ gồm các phố Phan Ðình Phùng, Hùng Vương, Hoàng Diệu, Ðiện Biên Phủ, Lê Hồng Phong, Chu Văn An, Trần Phú. Ðường rộng, dài, vỉa hè cũng rộng với những hàng cây xanh rợp bóng. Phủ Toàn quyền nay là Phủ Chủ Tịch được xây dựng trong những năm 1900-1902, bề thế, hài hoà. Các biệt thự ở đây thường theo kiến trúc miền Bắc nước Pháp, mái dốc, các chi tiết trang trí ở cửa, ở nóc diêm dúa, tỉ mỉ.
Khu Nam Hồ Gươm là một hình chữ nhật mà hai cạnh dài nay là Tràng Thi - Tràng Tiền và Trần Hưng Ðạo, hai cạnh ngang là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Khu vực này được xây dựng đồng thời với khu thành cũ xong vì phải giải toả nhiều làng xóm nên chậm hơn. Nhà hát lớn xây năm 1902-1911 theo kiểu Opera ở Paris. Phố Tràng Tiền chủ yếu là của thương nhân người Pháp và một số người Hoa. Một số công sở có quy mô lớn như Công ty hỏa xa Vân Nam (nay là trụ sở Tổng công đoàn ở ngã ba Trần Hưng Ðạo-Quán Sứ) được xây dựng xong năm 1902, trường đại học ở phố Lê Thánh Tông năm 1904, Phủ Thống sứ (nay là khách Chính phủ số 10 Ngô Quyền năm 1919). ở khu này đa số cũng là biệt thự nhưng mái không dốc, nhiều cửa, theo kiến trúc miền Nam nước Pháp.
Ở cả ba khu trên, tới những năm 20 và 30 xuất hiện các công trình kiến trúc theo xu hướng kết hợp phong cách á đông một số giá trị thẩm mỹ cao như Viện bảo tàng Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử) 1928-1932, Sở Tài chính (nay là Bộ Ngoại giao, 1929-1931), Viện Pasteur 1930, .... Ðây cũng là một quỹ đô thị rất đặc trưng, quý gía của Hà Nội:
Hệ thống quy hoạch phố xá, quy mô và tỷ lệ kiến trúc của các công trình ăn nhập với cơ thể đô thị Hà Nội vốn có.
Hầu hết các loại hình công trình được xây cất ở các đường phố này đều biểu hiện của những tìm tòi trong kiến trúc, đặc biệt theo hướng thích nghi của môi trường truyền thống và thiên nhiên của Hà Nội, hầu hết được thiết kế với sự chín chắn và lựa chọn cao về thẩm mỹ, dù chúng được làm theo phong cách nào đi nữa.
Các đường phố xây dựng vào thòi này góp phần lớn trong việc tạo lập ra bản sắc kiến trúc đô thị của Hà Nội, một thành phố hài hoà, xinh đẹp, xanh tươi; một thành phố mang nhiều tính nhân văn.
KHU THÀNH CỔ
Nằm ở khoảng giữa của Hồ Tây và Hồ Hoàn Kiếm là khu thành cổ Hà Nội. Thành Hà Nội cổ được xây dựng từ thế kỷ 11, đã nhiều lần bị phá huỷ, xây lại rồi bị tàn phá. Lần tàn phá cuối cùng là khi quân Pháp tấn công Hà Nội vào cuối thế kỷ 19. Toàn bộ tường thành và các cung điện cổ đã bị phá huỷ chỉ còn lại một vài di tích. Trên phố Phan Ðình Phùng hiện nay còn cửa Bắc của thành xây bằng đá tảng và gạch xây rất kiên cố. Trên bờ tường còn dấu vết của đạn đại bác khi Pháp tấn công.
Cột cờ thành Hà Nội xây năm 1812 hiện nằm trên đường Ðiện Biên Phủ, cao 40m gồm ba nền thềm rộng và tháp cổ hình lăng trụ, bên trong có cầu thang xoắn ốc dẫn lên kỳ đài. Trong thành cổ chỉ còn dấu tích của các nền cung điện. Ở phía nam thành cổ Hà Nội, còn lưu lại một phần kiến trúc của trường đại học đầu tiên ở Việt Nam: Văn Miếu-Quốc Tử Giám, cũng được khởi dựng vào đầu thế kỷ 11 dưới thời nhà Lý. Khuê Văn Các là một cổng đẹp và độc đáo về kiến trúc. Người Hà Nội thường lấy hình ảnh của Chùa Một Cột, Tháp Rùa, Khuê Văn Các, Cột cờ làm biểu tượng của thành phố thủ đô ngàn năm văn hiến.
KIẾN TRÚC HÀ NỘI NAY
Từ mười năm trở lại đây, thành phố được mở ra với các đường Giải phóng, Nguyễn Văn Cừ, Láng Hạ, Ngọc Khánh, Thái Hà. Khu biệt thự ven Hồ Tây ... với khối nhà lớn cao tầng của các cơ quan xen kẽ với nhà của tư nhân mọc lên nhanh chóng nhưng thiếu qui hoạch kiến trúc tổng thể. Hà Nội đang trong thời kỳ bùng nổ về xây dựng, bộ mặt kiến trúc thay đổi hàng ngày. Sau khi hoàn thành mấy chục khối nhà cao tầng này sẽ làm thay đổi hình ảnh của Hà Nội. Trong tương lai gần, Hà Nội sẽ mở rộng với nhiều dự án lớn như các khu Nam cầu Thăng Long, Bắc cầu Thăng Long. Du lịch Hồ Tây... với sự hợp tác và đầu tư của nước ngoài.
Tuy nhiên việc giải quyết các vấn đề của kiến trúc hạ tầng, bảo vệ cảnh quan môi trường, giữ gìn vẻ đạp kiến trúc quý giá vốn có của Hà Nội đang là nhiệm vụ rất quan trọng và vô cùng khó khăn.
CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC TÔN GIÁO TÍN NGƯỠNG
Một trong những thể loại di sản kiến trúc có giá trị của đô thị Hà Nội là các công trình kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng. Công trình chủ yếu được làm bằng gỗ, đá hay gạch. Kiến trúc có mái ngói với mái cong ở bốn góc hoặc mái ngói dốc thẳng với hai đầu hồi chắn bởi tường xây có các trụ biểu trang trí là đặc trưng cho hình thức thể loại kiến trúc này.
Một trong những thể loại di sản kiến trúc có giá trị của đô thị Hà Nội là các công trình kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng. Công trình chủ yếu được làm bằng gỗ, đá hay gạch. Kiến trúc có mái ngói với mái cong ở bốn góc hoặc mái ngói dốc thẳng với hai đầu hồi chắn bởi tường xây có các trụ biểu trang trí là đặc trưng cho hình thức thể loại kiến trúc này.
Kiến trúc Thiên chúa giáo ở Hà Nội chủ yếu kiến trúc tôn giáo phương Tây.
Các chùa chiền:
Đền Ngọc Sơn
Trước khi Hà nội là một trung tâm chính trị (từ thế kỷ thứ 5 sau công nguyên, với triều đại nhà Tiền Lý) thì Hà Nội đã là một trung tâm phật giáo với các thiên phái danh tiếng. Song phải đến thế kỷ 11, với sự xuất hiện của kinh đô Thăng Long, và triều Lý lấy Phật giáo làm quốc giáo thì chùa chiền, thiền viện, sư tăng ở Thăng Long - Hà Nội phát triển chưa từng thấy. Rất nhiều chùa được xây cất ở Thang Long như chùa Hưng Thiện, chùa Vạn Tuế, chùa Thiền Quang, chùa Thiên Ðức và hàng chục ngôi chùa khác được xây vào đời vua Lý Thái Tổ trên đất Thăng Long. Chùa chiền là nơi tôn nghiêm và linh thiêng, là nơi gửi nhờ lòng tin của toàn thể cộng đồng. Một số ngôi chùa nổi tiếng trong lịch sử Thăng Long-Hà Nội:
Chùa Bà Ðá
Chùa Kim Liên
Chùa Láng
Chùa Một Cột
Chùa Quán Sứ
Ðền Quan Thánh
Chùa Trấn Quốc
Chùa: Chùa là nơi thờ Phật. Bố cục mặt bằng và kết cấu của chùa ở Việt Nam tương tự như đối với đình và đền. Chùa được đặt ở nơi yên tĩnh, có cảnh quan đẹp, nhiều cây cốiBố cục mặt bằng của chùa bao gồm một nếp nhà 5 hay 7 gian, sân và tam quan, đôi khi trên tam quan có gác chuông. Chùa có thể được bố cục như đình với mặt bằng chữ Ðinh (J), chữ Công (I) hoặc chữ Nhị (=). Phía trong chùa gồm 3 không gian chính: là tiền đường, hậu đường, chính điện. Phía sau chùa có điện thờ các nhà sư đã mất và các gian ở của các sư đang trụ trì.
Đền Quán Thánh
Ðền: Ngày nay, trong tiếng Việt đền là nơi thờ thần đạo Lão được gọi là Quán. Một trong các ngôi đền nổi tiếng nhất là đền Quán Thánh nằm bên hồ Trúc Bạch. Ðạo Lão đã kết hợp với một số tín ngưỡng của cộng đồng dân tộc như tục thờ cúng tổ tiên, thờ thiên nhiên... và đôi khi kết hợp với cả Phật giáo và Khổng giáo.
Ðền thờ đạo Khổng gọi là Văn Miếu, văn tử hay văn chỉ, tuỳ theo vị trí của chúng ở thành phố hay ở làng. Ví dụ điển hình nhất của thể loại công trình thờ đạo Khổng là Văn Miếu Quốc Tử Giám. Hình dáng kiến trúc và cách sắp xếp của đền cũng tương tự như đình và chùa, song đền thường nhỏ hơn.
Các hình thức trang trí trong kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng cổ truyền:
Những hình thức trang trí thường được thấy trên đỉnh mái, ở các đầu hồi, mũi rầm, kết cấu mái, bình phong và các vách ngăn bên trong (chạm khắc gỗ). Chủ dề trang trí rất phong phú như chữ Hán, các đồ vật có tính tượng trưng, cây cối, động vật, trang trí hình học. Trong các chi tiết trang trí này có 4 con vật có sức mạnh siêu nhiên: long, ly, quy, phượng.
Ở cổng vào và ở các nơi trang trọng và ngoài các đình, đền, chùa, ta thấy các tấm hoành phi và câu đối được viết bằng chữ Hán nôm để biểu đạt một tư tưởng, một lý tưởng, một phương châm hay một ngạn ngữ.
(nguồn: www.vietnamtourism.com)