Nếu vẫn duy trì quy mô sản xuất manh mún, công nghệ cũ, lệ thuộc nguyên liệu nhập khẩu như hiện nay thì cánh cửa thị phần sẽ có nguy cơ khép lại với các doanh nghiệp nhỏ ngành giấy trong bối cảnh hội nhập.
Mỏng manh doanh nghiệp ngành giấy
Theo nhận định mới đây nhất của Bộ Công Thương, sản phẩm giấy nội địa tiếp tục phải cạnh tranh gay gắt với giấy nhập khẩu đang bán với giá thấp hơn để thâm nhập vào thị trường Việt Nam.
Kim ngạch xuất khẩu giấy 7 tháng đầu năm 2015 đã giảm 2,6% (đạt 288 triệu USD) so với cùng kỳ năm 2014. Riêng tháng 7/2015, giấy các loại sản xuất của Tổng công ty Giấy Việt Nam đã giảm 4,9% (đạt 10.700 tấn) so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong khi xuất khẩu giảm thì tình hình nhập khẩu giấy lại có dấu hiệu tăng nhẹ. 6 tháng đầu năm nay, nhập khẩu giấy so với cùng kỳ năm 2014 tăng 5%, trong đó, nhập khẩu giấy làm bao bì tăng 9%, tiếp đến nhập khẩu giấy in báo tăng 7% và nhập khẩu giấy khác có mức tăng thấp nhất 4%.
Những con số này đã vẽ lên viễn cảnh không mấy sáng sủa của ngành giấy trước các Hiệp định Thương mại tự do (FTA).
Quy mô nhỏ, năng lực yếu
Nói về tình hình hoạt động của ngành giấy hiện tại, bà Hồ Thị Kim Thoa, Thứ trưởng Bộ Công Thương, cho rằng ngành giấy mới sản xuất ra chủ yếu phục vụ cho tiêu thụ nội địa và chỉ xuất khẩu giấy in và viết ở dạng văn phòng phẩm. Vì vậy, chưa tận dụng được cơ hội xuất khẩu giấy với thuế suất bằng 0% khi hội nhập.
Thứ trưởng Hồ Thị Kim Thoa cho rằng giấy nhập khẩu vào Việt Nam một phần là loại giấy mà Việt Nam chưa sản xuất được (giấy tráng phấn, giấy tự sao chép, giấy chuyên dùng), một phần là loại giấy Việt Nam sản xuất được nhưng giấy nhập khẩu có chất lượng cao hơn giấy sản xuất trong nước (giấy copy, giấy làm bao bì chất lượng cao, giấy bao gói xi măng…).
Thống kê cho thấy ngành giấy hiện có khoảng 500 doanh nghiệp nhưng đa phần có quy mô nhỏ và vừa, công nghệ lạc hậu. Số doanh nghiệp ngành giấy có quy mô sản xuất trên 50.000 tấn hiện chỉ đếm trên đầu ngón tay, còn lại là các doanh nghiệp nhỏ. Năng lực ngành giấy sản xuất khoảng 2 triệu tấn/năm, gấp gần 20 lần so với cách đây 20 năm nhưng tốc độ tăng trưởng của ngành giấy hiện chỉ còn khoảng 10%/năm.
Trong khi đó, cùng xuất phát điểm như ngành giấy Việt Nam nhưng Indonesia đã đưa sản lượng lên gấp 10 lần Việt Nam, còn Trung Quốc thì chỉ mặt hàng giấy in báo cũng đã có công suất sản xuất trên 2,5 triệu tấn. Chính vì công suất sản xuất giấy và bột giấy ở Việt Nam còn nhỏ so với thế giới nên các doanh nghiệp giấy Việt Nam mất đi lợi thế cạnh tranh theo quy mô.
Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị trong ngành chủ yếu vẫn sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, phần lớn có xuất xứ từ Trung Quốc. Các nhà máy 100% vốn trong nước vẫn sản xuất manh mún, số lượng nhỏ lẻ, chưa đạt được các tiêu chuẩn đảm bảo yếu tố môi trường.
Chính vì vậy, chất lượng sản phẩm giấy trong nước không cao, sản phẩm không đa dạng, chất lượng thấp và giá thành cũng khó cạnh tranh với giấy ngoại (cao hơn giá giấy nhập khẩu khoảng 10%). Hoặc nếu mức giá tương đương thì giấy nhập khẩu luôn có chất lượng cao hơn.
Hiện ngành giấy chỉ tập trung sản xuất giấy in báo, giấy in (chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu nội địa), giấy viết, giấy bao gói loại không tráng (đáp ứng 33% nhu cầu nội địa) và giấy lụa. Hầu như chưa sản xuất được và nhập khẩu toàn bộ giấy tráng cùng những loại giấy yêu cầu độ bền cao, một số loại giấy kỹ thuật, giấy chất lượng cao phục vụ nhu cầu nội địa.
Một điểm yếu khác là phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu (60% nguyên liệu bột giấy, tức là khoảng 150.000 tấn) nên dễ bị ảnh hưởng bởi biến động trên thị trường thế giới.
Hiện tượng tăng giá bất thường của nguồn nguyên liệu sản xuất, có những mặt hàng có mức tăng tới 200%, đa số các nguyên liệu khác như các nguồn nguyên liệu giấy tăng ở mức 60% – 80%, trong khi đó, giá bán thành phẩm có mức tăng khá nhỏ, từ 20%-40%.
Trong năm 2014, Việt Nam nhập khẩu hơn 1,5 triệu tấn giấy và các sản phẩm từ giấy, trong khi xuất khẩu chỉ có 133 nghìn tấn, đã phản ảnh rõ tình trạng phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu của ngành giấy như thế nào.
Vấn đề phân bổ nguồn nguyên liệu và nhà máy sản xuất giấy hiện cũng chưa hợp lý. Quy hoạch nguồn nguyên liệu chủ yếu tập trung ở Miền Bắc và miền Trung trong khi năng lực sản xuất giấy và bột giấy tập trung mạnh nhất ở miền Nam.
Không những vậy, công nghiệp phụ trợ cho ngành giấy như sản xuất phụ gia, hóa chất, cơ khí chưa được quan tâm phát triển tương xứng, phải nhập khẩu khiến ngành giấy cũng khó phát triển.
Khó càng thêm khó
Bên cạnh những khó khăn nội tại, hiện nay, vấn đề ký quỹ 20% tổng giá trị lô hàng phế liệu nhập khẩu căn cứ theo Điều 58, Nghị định 38/2015/NĐ-CP của Chính phủ cũng khiến ngành giấy đang đau đầu. Hồi cuối tháng 7/2015 vừa qua, Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam (VPPA) đã phản ánh lên Bộ Công Thương về vấn đề này.
VPPA cho biết doanh nghiệp trong ngành giấy có sản lượng thấp nhất cũng phải nhập 1.000 tấn/tháng (2 lô), tương ứng số tiền ký quỹ 800 triệu/tháng. Tính bình quân, doanh nghiệp sản xuất giấy nhập khẩu 2.500 tấn/tháng, số tiền ký quỹ là 2 tỷ đồng. Doanh nghiệp sản xuất giấy ký quỹ nhiều nhất là 8 tỷ đồng (10.000 tấn/tháng).
Ông Vũ Ngọc Bảo, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký VPPA, cho rằng trong bối cảnh các doanh nghiệp đều thiếu vốn lưu động, việc ký quỹ một khoản tiền lớn (ít nhất cũng gần 1 tỷ đồng) hàng tháng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. VPPA đề nghị, nếu cần phải ký quỹ thì mức ký quỹ 5% giá trị lô hàng nhập khẩu là mức có thể chấp nhận.
Hiện nay, các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đòi hỏi các doanh nghiệp ngành giấy phải có những nỗ lực để thay đổi nếu muốn tồn tại và phát triển. Đáng chú ý nhất đối với ngành giấy là việc ký kết thành lập Cộng đồng kinh tế chung ASEAN (AEC) vào cuối năm nay và đến năm 2018, thuế suất nhập khẩu các mặt hàng giấy và sản phẩm từ giấy từ các nước trong khối về 0%.
Đây sẽ là nguy cơ thách thức lớn đối với ngành giấy trong nước vì có đến 50% lượng giấy của Việt Nam được nhập khẩu từ ASEAN. Các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của hàng nhập khẩu, đặc biệt là ở các phân khúc giấy cao cấp.
Thực tế cho thấy, trong năm 2014, nhiều doanh nghiệp phải hoạt động cầm chừng, chờ sự hỗ trợ của Nhà nước cũng như những biến động tích cực hơn của thị trường.
Điều đó đòi hỏi ngành giấy cần tăng cường đầu tư chiều sâu, nâng cấp dây chuyền sản xuất hiện có, đồng thời đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất bột giấy và giấy mới, có công nghệ hiện đại nhằm tăng sức cạnh tranh. Các doanh nghiệp giấy cũng cần có phương án giảm sự phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.
Một vấn đề quan trọng nữa là cần các nguyên tắc của thương mại quốc tế, các cam kết mà Việt Nam đã đưa ra trong quá trình hội nhập để ngành giấy xác định lại chiến lược sản xuất của mình.
Theo Thời báo kinh doanh